Đôi bạn. ( ảnh Tô Thẩm Huy)
Tình Bạn với TRẦN HOÀI THƯ
Phạm văn Nhàn (*)
Viết về nhà
văn Trần Hoài Thư. Với tôi, trải qua một giai đoạn dài. Từ cuối năm 1967 cho đến
hôm nay. Tình bạn vẫn gắn bó trên văn chương chữ nghĩa và ngoài đời.
1/ QUI NHƠN
Nói về bạn bè
khi tôi còn làm việc ở Qui Nhơn không nhiều lắm. Ngay cả nhưng người bạn trong
đơn vị của tôi. Ngoài ra tôi còn có vài người bạn cầm bút một thời còn rất trẻ. Thỉnh thoảng gặp nhau bù khú vài ba câu
chuyện cho vui. Hay ngồi quán cà phê nhâm nhi tách cà phê để nhìn thiên hạ
trong những ngày rảnh rỗi. Nhưng vào cuối năm 1967 tôi gặp anh Trần Hoài Thư.
Qui Nhơn là thành phố nhỏ, chỉ có vài con đường chính, lang thang rồi cũng gặp
nhau. Thành phố đầy bụi và xe nhà binh. Không khí chiến tranh bao trùm, và đĩ
trong những khu quân sự có lính đồng minh trú đóng . Hay trên những con đường
trong thành phố đầy quán bar. ( thật sự là như vậy). Những người lính như chúng
tôi cảm thấy lạc lõng giữa lòng phố thị.
Đã trải qua
50 năm, ngồi ôn lại những người bạn trong thời khói lửa chiến tranh khốc liệt
mà tôi gặp, trong đó có anh . Nhất là ở chiến trường Bình Định, tôi không biết
gặp anh lúc nào. Ai giới thiệu. Tôi không nhớ ra. Hay chúng tôi có cái tên:
không gặp mà đã quen. Mà sao tôi với anh gắn bó trên tình bạn lâu nhất. Phải
nói " ngọt bùi" đều có nhau, dù hai chúng tôi khác đơn vị. Ngay cả những
người bạn cầm bút vẫn nói như thế.
Vào năm 1967.
Nếu tôi không có lệnh đổi về Qui Nhơn làm việc thì làm sao gặp và thân với Trần
Hoài Thư ??. Bên cạnh anh, tôi còn có hai người bạn dù nhỏ tuổi hơn tôi, lại
khác nghề nghiệp, mà hôm nay cũng đã 50 năm, tôi không hiểu sao lại gặp hai người
bạn trẻ này. Đó là nhà thơ Phạm Cao Hoàng và Lê Văn Trung. Tôi chỉ nói ở Qui
Nhơn thôi. Chú bạn bè tôi ở các tỉnh tôi chưa nói đến. Có lẽ vì cái
"tên" chăng? . Mà trước 1975, chỉ ở miền Nam, những người cầm bút dù
là lính hay không phải là lính, chưa gặp lần nào. Mà nếu có gặp nhau xem như
thân quen tự lúc nào.
Qui Nhơn, tôi
sống lang thang không nhà một thời gian ngắn, Hết ở nhà này tới nhà khác . Hết ở
bến xe tới ga xe lửa. Lang thang hoài cũng mệt, tôi quyết đinh thuê một căn nhà
gồm 2 phòng trong khu 6 Qui Nhơn, Cuối đường Nguyễn Thái Học. Gần các cơ quan
quân sự. Và gần nơi tôi làm việc.Từ trong ngôi nhà này, nó như cái trạm dừng
chân cho những người bạn của tôi từ chiến trường về thành phố nghỉ tạm qua đêm.
Những người bạn của tôi qui tụ về. Thường nhất là Trần Hoài Thư. Phạm Cao Hoàng
và Lê văn Trung. Thỉnh thoảng cũng có anh chàng học Sư phạm tên Mai Khế cũng
ghé tới chơi. Tôi không biết sau này anh Mai Khế đó đi đâu? Căn nhà có cửa
nhưng không khóa, chỉ khép hờ. Nhà không có điện. Thắp đèn dầu. Không giường
không bàn ghế. Nhưng đầy ấp tình bạn và tình đồng đội, tình văn chương chữ
nghĩa. Những người bạn từ chiến trường về phố thị cũng ở đây. Những em bị bắt
đi lao công đào binh chờ ra tải đạn ngoài chiến trường cũng ở đây. Căn nhà thiếu
thốn mọi thứ, nhưng tình thì không thiếu.
Nói và viết về
Trần Hoài Thư. Tôi viết hoài không hết. Bản chất của Trần Hoài Thư. Người lính
thám kích của Đại đội 405 của sư đoàn 22/BB nghe
thì dữ dằn lắm, nhưng hiền như Bụt. Ốm yếu. Gầy gò, Cận nặng ( hình như 7 độ).
Đôi kính cận lúc nào cũng có sợi dây thun quàn ra sau ót. Không bao giờ đội nón
lưỡi trai ( nón của lính). Chỉ có một cái nón rừng, cuốn lại vắt ở cầu vai áo
hay nhét vào túi quần. Lang thang. Bất cần đời. Nhưng có một tấm lòng rộng rãi.
Biết thương người. Hòa đồng với mọi người. Không phân biệt. Thường chơi với những
người lính không có cấp bậc. Không phân biệt nhà thơ lớn nhà văn nhỏ. Đã cầm bút
là chơi hết mình. Đó là Trần Hoài Thư mà tôi quen đã 50 năm nay. Không thay đổi.
Mỗi lần nói đến chuyện văn chương là anh cười sảng khoái.
Có một điều cần
phải nói, với THT anh viết lúc nào cũng được. Tại quán cà phê. Tại bến xe. Và
trong căn nhà khu 6 không có bàn ghế. Thế mà anh vẫn viết. Một điều nữa, cần phải
nói. Chữ viết của Trần Hoài Thư xấu nhất trên thế gian này. Tôi chưa thấy ai viết chữ xấu như anh. Thế
mà các anh trong tòa soạn đọc được mới hay. Tôi thì chịu, nếu ngồi đọc hết một
truyện của THT Viết.
Viết về THT
giai đoạn ở Qui Nhơn. Hình như ngoài tình bạn ra tôi với anh còn có cái duyên
thật kỳ cục. Như Têt Mậu Thân năm 1968. Đơn vị bắt tôi thành lập một đại đội khóa sinh về giữ an ninh từ ngày 27
cho tới sáng 29 Tết. Rải quân trên con đường dẫn vào thành phố. Đầu đường Gia Long. Trên doạn đường này có cây xăng Ông
Tề. Tối 28 tôi đi tuần tra, chó sủa nhiều dọc theo đường rầy xe lửa, Tôi cứ
nghĩ là "thiên hạ" đi sắm tết. Sáng 29 Tết tôi rút quân để đơn vị BB
thay thế. Ai dè đơn vị thay thế tôi lại là 405/ TK của Trần Hoài Thư. Sáng 30 Tết
tôi định đi lang thang ra phố thì có lệnh cấm trại 100% . VC tấn công vào thành
phố. Tối 30 Tết, Trần Hoài Thư bị thương tại cây xăng Ông Tề này. Mà cũng tại
cây xăng Ông Tề này trước đó tôi có sao đâu? Âu cũng là cái số. Sáng mùng 2 Tết
tôi vào QYV/Quy Nhơn thăm. Thư cười. Chưa chết.
Một bản tin ngắn trên VĂN của
ông Trần Phong Giao có đi như sau. Xin
trích:
" bị thương trong thành phố.
Trần Hoài thư, một tác giả trẻ nhiều triển vọng, quen thuộc với độc giả bách Khoa, Văn..vừa bị thương khi đem quân về tiếp viện một thị trán ngoài Trung, trong cuộc binh biến đầu Xuân vừa qua.
Trong thư gửi toà soạn Văn, Trần Hoài Thư than là đi rừng đi núi mãi không sao, ngày đầu xuân về thành phố thì lại bị kẹt. Cứ ao ước về thành phố xả hơi ít ngày, nay lúc được về lại là để nằm trên giường bệnh. Trong lúc đó lại có tin, gia đình anh ở ngoài Huế lại tan hoang nhà cửa.
Mặc dù mắt bị cận thị rất nặng, Trần Hoài Thư hiện đang phục vụ trong một đơn vị thám kích. Sau những giờ hành quân gian khổ,anh chỉ có sinh thú độc nhất là đọc sách báo là sáng tác thơ văn.- Một sinh thú mà anh rất ít được hưởng vì nhiệm vụ tác chiến thường quá nặng nề.
Hy vọng và cầu chúc là sau ngày dời bệnh viện, Trần Hoài Thư sẽ may mắn hơn, được thuyên chuyển về một đơn vị nào đó,nơi mà ngioài phần quân vụ cần thiết , anh sẽ có một thời gian nhiều hơn dành cho công việc sáng tác..
Theo bản tin,
Ông TPG hi vọng là sau khi THT ra khỏi viện sẽ được may mắn hơn. Làm sao có sự
may mắn hơn khi một người lính không có thế lực. Không quen biết; mặc dù anh là
một nhà văn có những truyện ngắn đi trên những tạp chí uy tín ở Sài Gòn . Mang
đôi kính cận dầy cộm. Vẫn hành quân ở ĐĐ 405 TK.
Nói về căn
nhà trong khu 6 Qui Nhơn. Ngôi nhà có MA có QUỶ thật sự. Không ai dám thuê để ở.
Tôi không biết cho nên thuê. Bạn bè ở
tác chiến về ngủ qua đêm đều thấy. Nhưng với tôi thì không. Hình như ma quỷ thấy
tôi đều sợ. THT vẫn nói như vậy.
Sau đó. Có
ngươi lính quân cụ cho tôi ở ngôi nhà của anh ta không trả tiền nhà. Nhà bên cạnh
nhà tôi thuê cũ. Vách ván. Mái tôn. Có giường và bàn. Rộng và thoáng. Nhưng vẫn
không có điện. Từ ngôi nhà này, môt hôm, anh em họp mặt đông vui. Gồm PVN. Trần
Hoài Thư. Phạm Cao Hoàng. Lê Văn Trung. Thái Ngọc San. Nhà báo Huy Hoàng và Lê
văn Ngăn . Mấy anh em ngồi uống bia. Nhâm nhi khô mực, thì Thái Ngọc San bỗng
dưng đứng dậy chỉ tay về phía Trần Hoài Thư nói : mày là thằng lính đánh thuê. câu nói có vẻ hằn học. Lần
đầu tiên tôi thấy Trần Hoài Thư nổi giận. Anh đứng dậy đập chai bia xuống bàn định
đánh . Anh Huy Hoàng can và dẫn Thư ra ngoài. Không khí mất vui. Không biết anh
Huy Hoàng nói với Thư như thế nào. Nhưng sau đó Thư với anh Huy Hoàng vào. Và
xem như không có gì xảy ra. Viết lại hôm nay, anh Huy Hoàng, Thái Ngọc San và
Lê văn Ngăn cũng đã mất rôi. Bây giờ chỉ còn là một kỷ niệm. Lần đầu tiên tôi
thấy Trần Hoài Thư nổi nóng. Một lần nữa trên căn gác của Đặng Hòa ( nhà thơ
Nguyễn Thị Thùy My) trong khu chơ Quy Nhơn. Hôm đó tôi lại chứng kiến Trần
HoàiThư nổi nóng lần thứ hai đánh Đặng Hòa mấy tát tai. Vì khuyên Đặng Hòa bỏ
hút bạch phiến không được. Đặng Hòa cũng đã mất rồi. .
Qui Nhơn, Tôi
với THT hai người lính bụi, thường hay rủ rê "Dù" đi chơi. Hết Tuy
Hòa rồi Nha Trang. Về Tuy Hòa có Mang Viên Long. anh Trần Huiền Ân. Phạm Ngọc
Lư. Hoàng Đình Huy Quan. Phạm Cao Hoàng. Nguyễn Lệ Uyên. Rồi về Nha Trang ở nhà
Lê Minh. Có Nguyễn Âu Hồng. Thế Vũ. Chu Trầm Nguyên Minh. Tô Đình Sự. Huy
Hoàng, Họa sĩ Thanh Hồ..... bao nhiêu chuyện vui không nói hết. Tình bạn cứ mỗi ngày thêm ấm áp.
Cũng từ Nha Trang sau năm 1968, anh cho ra mắt tập truyện đầu tay: Nỗi Bơ Vơ Của
bầy Ngựa Hoang. Do Ý Thức in và phát hành.
Năm 1969 tôi
đổi về Tháp Chàm. Phạm Cao Hoàng , Lê văn Trung cũng ra trường vào năm đó. Trần
Hoài thư còn ở lại 405 TK. Mấy anh em gặp nhau chia tay. Tôi khuyên với Thư tìm
cách rời khỏi 405. Vì mặt trận Bình Định càng ngày càng khốc liệt.
2/ THÁP CHÀM
Một buổi sáng, lang thang đi làm việc qua Cầu
Móng ( cầu xe lửa), thì có một anh chàng đi xe gắn máy, áo quần bảnh bao. dừng
xe lại, hỏi tôi: có phải PVN không? Hóa ra là nhà thơ Võ Tấn Khanh ( Tôn Nữ
Hoài My). Khanh biết tôi là do Phạm Cao Hoàng báo là có tôi về Tháp Chàm. Qua
Võ Tấn Khanh tôi biết thêm Nguyên Minh, Ngy Hữu. Còn Lê Ký Thương thì tôi đã biết
khi tôi ăn cơm tháng với Lê Ký Thương do chị Yến, chị của nhà báo Lê Minh ở
Tháp Chàm nấu cho ăn. Khi đó Lê Ký Thương làm ở tiểu khu Ninh Thuận. Tôi chỉ ăn
cơm ở đây một tháng thôi. Sau đó mua thực
phẩm về nhà tự nấu ăn.
Bỗng có tin
nhắn của Lê Minh từ Nha Trang vào nói với tôi là THT đang ở Nha Trang muốn vào
Tháp Chàm thăm tôi. Gọi tôi ra đưa Thư về Tháp Chàm. Tôi mượn chiến xe gắn máy
của người bạn ra Nha Trang đem Thư về ở với tôi. Vế Tháp Chàm tôi không cho Trần
Hoài Thư về đơn vị nữa. Tính sau. Và Trần Hoài Thư ở chơi với tôi gần hai
tháng. ( THT đi có giấy phép của đơn vị 405 TK)
Tháp Chàm, có
Võ tấn Khanh dạy học ở trường tiểu học Đô Vinh, gần nhà tôi thuê. Cứ vài đêm
Khanh tới đèo tôi với Thư trên chiếc xe gắn máy xuống Phan Rang gặp Nguyên
Minh, Lê Ký Thương, Ngy Hữu uống cà phê . Nguyên Minh là người sáng lập tạp chí
Ý Thức và in cho Thư tập truyện ngắn đầu tay: Nỗi Bơ Vơ Của bầy Ngựa Hoang. In theo lối quay ronéo, chữ nghiêng (
tôi còn nhớ như thế). rất đẹp. Bìa do Lê Ký Thương trình bày. Người đánh máy
trên stancil là chị Phương, bạn của Nguyên Minh. Kể ra chị Phương này cũng giỏi
khi ngồi mở to mắt mà đọc những truyện ngắn của THT. Như tôi đã viết: chưa ai viết chữ xấu như THT . Nhưng chị
Phương đọc được. Có dịp tôi sẽ nói vế tập
truyện đầu tay này của Trần Hoài Thư tại sao là NBVCBNH. Vui cũng nhiều mà buồn
cũng nhiều cho tuổi trẻ chúng tôi trong thời chiến qua tập truyện đầu tay này của
THT. Tập truyện in ra phát hành hết. Hình như 100 tập???
Trong thời
gian ở Tháp Chàm ( xin nhắc lại: Trần Hoài thư không phải đào ngũ như nhiều người nghĩ ).
Không thích, bỏ đơn vị đi chơi kiểu vô kỷ luật. Trong lúc ở Tháp Chàm lúc nào
anh cũng muốn về lại với quân đội. Trên Vấn Đề của ông Mai Thảo có một bản tin
đánh đi từ Nha Trang, vào ngày 18 tháng 11 năm 1970. Mà chúng tôi có được. Xin
trích:
Từ Nha Trang..
Tôi đã bỏ đơn vị. Được ba tháng. Tôi muốn có một thái độ nhất là trong lúc nầy. Bây giờ thì tôi chỉ còn chờ ngày ra Tòa.Có điều chắc chắn là tôi sẽ trở lại quân ngũ. Tôi muốn như vậy..
Trong gần hai
tháng ở Tháp Chàm với tôi. Tôi có nhận lá thư của ông Trần Phong Giao gởi cho
tôi nói là đưa THT đi trình diện. Kể ra
nhiều anh em và mấy ông trong tòa soạn cũng nghĩ THT đào ngũ. Ai cũng lo lắng
cho Thư.
Vào cuối năm
1969. Tôi đưa Thư ra Nha Trang trình diện nơi Quân vụ thị Trấn ( đồn Quân Cảnh).
Ra tòa án binh. Giáng cấp. Rồi đến Đơn Vị 2 Quản Trị, đóng ở Diên Khánh, Nha
Trang. Và từ đây, Trần Hoài Thư nhận sự vụ lệnh lên Sư Đoàn 23 BB trên Ban Mê
thuột. Tôi nói với Thư: tránh vỏ dưa lại
gặp vỏ dừa. Ngày tiễn Thư lên Ban Mê Thuột tại bến xe Nguyễn Hoàng, Nha
Trang, tôi cởi chiếc jacket cho Thư mặc. Và có thêm hai người bạn tiễn Thư lên
đường là nhà văn Nguyễn Âu Hồng ( ở Mỹ) và nhà thơ Nguyễn Sa Mạc ( còn ở VN ).
Và cũng từ ngày hôm đó, tôi xa Trần Hoài Thư .
Đưa THT lên
Ban Mê Thuột. Về lại Tháp Chàm. Tôi có một cái radio nhỏ để nghe tin tức ban
đêm. Một điều thú vị là khi tôi tò mò bắt qua tần số của đài MTGPMN. Vô tình
tôi nghe được một bản tin nói về nhà văn Trần Hoài Thư. Đang nằm trên giường,
tôi ngồi bật dậy để nghe. Đại loại: Bản
tin nói nhà văn Trần Hoài Thư đã bỏ súng không còn bắn giết cách mạng và nhân
dân nữa. Nhưng sau đó vì bản chất ngụy của ông ta đã trở lại cầm súng. Tóm
lại bản tin không dài. Lúc đầu ca ngơi THT nhưng sau đó trách cứ vì bản chất.
Tôi nghe mà không biết ai viết bản tin
này gởi vô bưng. Có nhiều nghi vấn trong số những bạn cầm bút quen biết giữa
tôi với Trần Hoài Thư.
Tôi giữ cái
tin này không nói với ai, cho đến khi gặp THT bên Mỹ tôi nói cho Thư nghe. Thư
cũng ngạc nhiên. Và cũng có những nghi vần giống tôi. Dù gì khi tôi nghe bản
tin này, tôi nghĩ THT không phải là nhà văn nổi tiếng bên này mà còn bên kia biết
đến nữa.
Nhắc đến Thư ở
Tháp Chàm. Tôi mới nhìn thấy được " cuộc sống nội tâm" của THT. Tại
căn nhà tôi thuê, trên một ngọn đồi nhỏ. Dưới chân đồi là đường rầy xe lửa (
nhà gần ga Tháp Chàm). Trước sân nhà có một tảng đá trắng không cao lắm mà tôi
dùng làm nơi để ngồi vào những buổi chiều mát trời. Tôi thấy Thư chiều nào cũng
ra ngồi trên tảng đá ấy nhìn về hướng Krong Pha. Anh buồn, mỗi khi nghe còi tàu
xe lửa chạy qua. Anh nghĩ về Đơn Dương những ngày thơ ấu sống gần ga xe lửa.
Tháp Chàm cũng là nơi có THT về với tôi. Tôi vui. Cho nên những ngày nghỉ, tôi với Thư thường vác súng M16 xuống sông Dinh bắn cá đem về nấu ăn. Bờ sông Dinh cây cao bóng cả.
Nhiều đá lớn giữa dòng sông. Hai người lính ốm o gầy còm ở trần, ngồi trên những
tảng đá dưới những bóng cây chẳng khác nào người rừng. Tôi nhớ, có lần, THT cho
tôi xem một lá thư của một người con gái tên Yến ở Cần Thơ viết cho anh. Có nhắc
đến một bài hát: Buồn Tàn Thu ..." em
ngồi đan áo. Lòng buồn vương vấn. Em thương nhớ chàng....
Thư lên Ban
Mê Thuột. Tôi sống vài tháng thì đổi ra Dục Mỹ. năm 1970. Những năm sau, tôi có
gặp Võ Tấn Khanh được biết tin Thư về vùng 4 và đã lập gia đình. Tôi cũng thế.
Hai người lính bụi đã có hai người con gái thương cuộc sống bụi của chúng tôi.
Từ đó không còn bụi nữa.
3/ ĐẾN MỸ
Tháng 9 năm
1991, gia đình tôi đến Mỹ theo diện H.O. Thành phố đầu tiên tôi đến là Houston.
Xa lạ. Không bạn bè. Không quen biết ai, ngoại trừ người bảo trợ. Tôi sống khép kín. Cố mong làm sao tạo được một
cuộc sống mới trên xứ người. Không bon chen và không đụng đến cây viết. Và cố
ý tìm xem có tên THT trên những tờ báo chợ không. Vô tình,
tôi bắt gặp tên THT trên trang đầu của tờ báo Xây Dựng trong ban biên tập. Mừng
quá, về căn phòng thuê trên đường Beechnut tôi gọi điện cho tòa soạn hỏi số điện
thoại của THT. Tòa soạn cho biết không có số điện thoại chỉ có e mail và không
có địa chỉ. Tôi biết quái gì về e mail. Tôi nói với vợ tôi. Đành chịu,
Ở Houston 9
tháng không có việc làm gì chính đáng . Qua năm 1992 gia đình tôi quyết định về
thành phố Amarillo, cũng trong bang Texas về phía Bắc mà lập nghiệp cho mãi đến
cuối năm 2012.
Khi ở
Amarillo, vào năm 1994. Vợ tôi có quen với một chị cũng người Huế biết gia đình
anh Phiệt ở Houston, và cho vợ tôi số điện thoại. Vợ tôi gọi và hỏi thăm đồng thời cho số điện thoại
nhà để vợ chồng anh Phiệt chuyển cho THT. Vợ tôi làm ca chiều trong hãng bò mà
tôi thường hay nói chơi là: trung tâm tàn phá sắt đẹp. Nhưng vì cuộc sống phải
làm. Còn tôi làm ở hãng mộc. Khoảng 6 giờ chiều đi làm về, chuông điện thoại
reo. Đầu dây bên kia là tiếng nói của người bạn tôi, như ngày nào: Trần Hoài
Thư. Tôi mừng muốn khóc. Hỏi thăm về gia cảnh THT cho biết một vợ một con. Tôi
hỏi Thư vợ tên Yến phải không? Thư nói phải. Một mối tình đẹp còn hơn tiểu thuyết.
Từ ngày đó, tôi với Thư thường gọi nhau hằng
ngày. Tối về , tôi nói với vợ tôi là anh Thư có gọi. Bà vui lắm. Vì ở Mỹ tôi
không có ai là bạn ngoài trừ Trần Hoài Thư. Và, hai gia đình ở Huế cũng gần và biết nhau.
Những lần gọi
thăm nhau, lúc nào THT cũng động viên tôi viết trở lại. Khi đến Mỹ, tôi có đem
theo một ít bản thảo viết truyện trên giấy học trò khi mới ra khỏi trại cải tạo.
Viết để mà chơi, Không dám đưa ai đọc. Vì sợ.
THT động viên
tôi viết. Tôi hỏi Thư viết bằng cách nào? THT nói là tôi phải mua một computer
để viết. Tôi biết xử dụng computer đâu mà mua. Tuy nhiên tôi cũng ra xem giá cả.
Đồng lương cu li của tôi không thể nào mua nổi cái máy đánh chữ thì làm sao mua
một cái computer? Cũng may, có một anh bạn
mới quen muốn bán cái computer cũ cổ lỗ sỉ không dùng nữa, bán với giá
300 đô. Tôi mua. Đem về không biết cách
dùng. Nhưng tối nào cũng "vọc". Không có chữ đánh tiếng Việt. Không
biết dùng email là cái gì. Đánh bản văn ra sao. chịu.
Qua THT. Người bạn cũng là người thầy của tôi chỉ cho tôi biết cách xử dụng máy vi
tính, từ năm 1994 cho tới nay. Những truyện ngắn của tôi viết khi ra khỏi trại
đã được phục hồi lại trên máy vi tính cổ lỗ sỉ này. Ngoài ra THT còn bày cho
tôi copy vào dĩa để phòng hờ máy bị hư. Qua THT, kể từ năm 1969 cho đến khi tôi
bắt liên lạc được với THT vào năm 1994. THT không thay đổi. Với bạn bè, anh
chơi hết mình và vui tính.
4/ NGÀY ĐẦU GẶP
TRẦN HOÀI THƯ và CHI YẾN
Hình như vào
năm 1996 (?) THT có tổ chức ra mắt sách ở Quận Cam, Cali. THT mời tôi tham dự.
Tập truyện: Ra Biển Gọi Thầm. tôi từ
Amarillo bay xuống Dallas. Còn THT và chị Yến bay từ New Jersey tới Dallas.
Chúng tôi gặp nhau trên cùng chuyến bay qua Cali. Vui vô cùng, vì lần đầu tôi gặp
THT sau năm 1969. Chị Yến. Tôi nói với
chị, dù chưa biết chị trước 1975 nhưng khi THT về sống với tôi ở Tháp Chàm, tôi
đã đọc thư của chị gởi cho Thư và chị có nhắc
đến một bản nhạc mà chị ưa
thích. Buồn Tàn Thu. Cho nên khi tôi với
THT liên lạc lại với nhau, tôi hỏi Thư có phải vợ là chị Yến không? THT cười rất
vui. Một mối tình rất đẹp. Còn hơn tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Bà Tùng
Long nữa. Sau này, thỉnh thoảng có về Houston gặp THT và chị Yến. Trong buổi họp
tại nhà Phạm Quang Tân, người chủ trương tạp chí: Văn Hóa Việt Nam. Tôi đề nghị
chị hát Buồn Tàn Thu. Giọng chị nhỏ, nhưng hát rất hay. Tôi nhớ mãi.
5/ TẠP CHÍ
THƯ QUÁN BẢN THẢO và THƯ ẤN QUÁN
Vào khoảng
tháng 6 năm 2011. Một cuộc hẹn gặp nhau tại Houston giữa tôi với THT và anh Trần
Bang Thạch tại nhà con gái tôi. Trong buổi hẹn gặp nhau đó, anh Trần bang Thạch
có giới thiệu tôi với Trần Hoài Thư hai vị khách là bạn của TBT. Chị Nguyên
Nhung ( Houston) và anh Cao Vị Khanh ( Canada). Hai vị này cũng viết văn và làm
thơ. Trong lúc ngồi nói chuyện thì các anh đề nghị với THT và tôi làm một tạp
chí Văn Học ( không nhớ ai đề nghị). Với
tôi làm một tạp chí văn học không phải là dễ. Nhưng, tôi nghĩ ai rồi cũng có một
ước mơ. Cứ cho ước mơ đó sẽ hiện thực.
Sau khi đồng ý và quyết tâm ( chưa nghe ai nói đến hình thành tạp chí
như thế nào: tài chánh bài vở ra sao. Chỉ nói làm sao hình thành một tạo chí).
Mấy anh chị đề nghị tôi lo bài vở. Còn THT thì lo kỹ thuật nếu tạp chí hình
thành.
Bẳng đi một
thời gian không ai nói đến sự hình thành một tạp chí hoàn toàn văn học trong buổi
họp tại Houston. Người nói đến tạp chí sẽ
hình thành cho được là Trần Hoài Thư. Chỉ có THT bàn bạc với tôi hằng đêm qua
điện thoại. Thỉnh thoảng có Trần bang Thạch góp ý. Bài vở ra sao? Tên tạp chí
là gì? THT hỏi tôi. Tôi nói với THT là bài vở không thiếu, chỉ lo tài chánh để
in và phát hành. THT hỏi tôi tạp chí chọn tên gì. Tôi có cái mau mắn mà ai cũng
ghét. Trả lời ngay từ cái tên của Trần Hoài Thư: THƯ QUÁN BẢN THẢO. Tôi giải
thích cho THT nghe hai chữa BẢN THẢO. THT đồng ý cũng như bổ sung thêm nghĩa của
BẢN THẢO. Và sau khi tôi với THT đồng ý cái tên cho tạp chí, những ngày làm việc
của THT trong hãng IBM . Anh đã tạo nên một phần mềm (SOFTWARE) cho riêng TQBT
ruột cũng như bìa, và chỉ cho tôi cách sử dụng. Không ngờ phần mền ( software)
do THT làm riêng cho TQBT lại in được từ
Nguyên Minh trong nước. Cho nên giữa TQBT và Nguyên Minh là hai nơi thường liên
lạc với nhau.. .
Tôi thông báo
cho các anh trong nhóm. Lúc đó trong nhóm chủ trương TQBT gồm có 5 người: Trần
Hoài Thư. Phạm văn Nhàn. Trần bang Thạch. Cao Vị Khanh. Nguyên Nhung. Và TQBT
phát hành số đầu tiên ( số 1) vào ngày
11 tháng 9 năm 2001. THT lấy ngày này cũng là ngày đáng nhớ khi hai tòa nhà
( Twin Towers) bị những tên khủng bố ném hai chiếc máy bay vào. Số 1 đúng 100 trang. Phát hành vào khoảng 500
số cho mỗi kỳ. Tiền giấy, mực và phát hành một tay anh THT và chị Yến lo hết. Sau đó là số 2. và đến số 3 trang bắt đầu tăng từ 100 trang lên đến trên 200
trang. Lúc này, tôi với anh THT đã liên lại được với bạn bè trong nước và qua
email các bạn gởi bài ra cho TQBT.
Nói về cách
in ấn TQBT là do một tay anh THT và chị Ngọc Yến, vợ anh. Một người vợ lúc nào
cũng khuyến khích anh làm văn học. Theo tôi được biết ngày đi làm, tối về anh
xuồng cái basement chật hẹp của ngôi nhà anh ở, xử dụng hết tất cả những dụng cụ
nấu nướng của chị đem xuống basement để
thí nghiệm. Anh điện thoại cho tôi nói như vậy. Tôi không hình dung ra với những
dụng cụ nhà bếp đó làm sao anh đóng thành sách???. Anh hỏi tôi về cách kẹp giấy,
vì tôi làm nghề mộc. Kẹp giấy khác kẹp gỗ. Anh đi mua mấy cái claim và dao cắt
giấy. Anh mày mò và đóng thành tập TQBT số 1. Môt thành công của anh mà tôi
không nghĩ tới một THT có thể làm được.
Sau khi TQBT
tập 1 phát hành. Bước kế tiếp cho ra tập 2. Sau hai tháng. Anh THT nói với tôi
anh muốn phục hồi lại: Di Sản văn Chương Miền Nam. Tôi đồng ý. Và từ đó có Tủ
sách DSVCMN ra đời. Với cái tên nhà in mang tên gì? Tôi nói với anh không chọn
đâu xa cũng từ cái tên của anh mà ra tất cả: THƯ ẤN QUÁN. Từ đó anh tạo ra một
LOGO riêng cho Thư Ấn Quán. Từ nhà in này, TQBT số 2 phát hành. Và cũng từ Thư Ấn
Quán này. Tập truyện đầu tiên được lên bàn mỗ của Thư Ấn Quán là tập truyện
Vùng Đồi của tôi. Sau đó, TQBT không phát hành theo bất định kỳ nữa mà THT hưng
phấn cho TQBT phát hành hàng tháng một. Tôi rất mệt mỏi, ngày đi làm tối về phải
đọc bài, dàn trang, Lái xe thì ngủ gục. Tôi đề nghị với Thư đừng làm như vậy. Cứ
bất định kỳ theo chủ trương mà làm. Nhưng bài vở của những tác giả gởi đến nhiều.
Từ đó TQBT 2 tháng phát hành một lần. Tay nghế của THT về cách in ấn ( cũng là
thủ công) càng ngày càng tinh vi. Từ bìa mỏng cho đến bìa cứng. In từ 200 trang
lên đến 700 trang với những bộ văn, thơ miền Nam đồ sộ được phát hành. Bên cạnh
việc làm đầy ý nghĩa để gìn giữ một di sản văn chương miền Nam từ năm 1954 cho
đến năm 1975 thật là quý giá. chưa có một nhà in công nghiệp nào trên đất Mỹ của
người Việt làm như nhà in thủ công của THT. Bên cạnh anh, còn phải có công rất
lớn của người vợ là chị Nguyễn Ngọc Yến. Mãi đến hôm nay, TQBT đã trải qua 17
năm với 79 số, phát hành liên tục, và những tập sách do Thư Ấn Quán in cho bạn
bè cũng phát hành liên tục. Một điều thú vị nữa là về kỹ thuật in của anh đã
cho ra bìa chữ nổi. Một lối in đầy ấn tượng trong năm 2018 khi anh in tập thơ
Thu Hoang Đường của Lê văn Trung ( trong nước) mà người bạn của anh là Nguyên
Minh rất ngạc nhiên và khen anh.
Viết về THT ở
cái tuổi thất thập cổ lai hi này, đã trên 50 năm, với anh, vợ bịnh anh đau mà vẫn
mãi còn đam mê chữ nghĩa. Tôi nghĩ trên cõi đời này ít có ai như anh.
Viết mãi
về anh. Viết hoài không hết.
Phạm Văn Nhàn
( Houston, tháng 2.2018.)
(*) Về nhà văn quân đội Phạm Văn Nhàn.
Phạm Văn
Nhàn là tên thật, cũng là bút hiệu. Sinh năm Nhâm Ngọ (1942) tại Phú
Trinh, Phan Thiết. Cựu Học sinh Trung học Phan Bội Châu PT. Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức khoá 19
(1966). Ra trường về phục vụ ở sư đoàn 22 Bộ Binh, hành quân vùng Bồng
Sơn, Bình Định. Sau về tùng sự tại Tổng Cục Quân Huấn. Chức vụ cuối
cùng trước 1975 là Đại Uý Tiểu Đoàn Trưởng tiểu đoàn Trần Quốc Tuấn, trung tâm
huấn luyện Lam Sơn, Dục Mỹ. Sau 1975 đi tù cải tạo 8 năm.
Làm thơ rất
sớm. Thơ đăng trên nhật báo Tự Do của Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền, (và ngâm
trên đài phát thanh Sài Gòn trong chương trình Thi Văn Tao Đàn của Đinh
Hùng). Vào lính thấy đời sống đầy thảm khốc, bỏ thơ xoay ra viết truyện về
những mảnh đời phiêu bạc trong chiến tranh. Truyện ngắn đăng trên tuần
báo Khởi Hành của Viên Linh (trước 1975). Sang Mỹ định cư tại Amarillo,
sau dọn về Houston, Texas.
Cùng Trần Hoài Thư sáng lập và điều hành tạp
chí Thư Quán Bản Thảo.
Tác phẩm đã xuất bản:
Vùng Đồi,
Màu Thời
Gian,
21 Khuôn Mặt Văn Nghệ miền Nam.
( Trích từ bạn hữu )