Saturday, April 30, 2016



                         Phần12: Sự sụp đổ của Sài gòn



      Tháng Tư, mất nước

        
      Thành phố của tôi
      những con đường ngập ngụa 
      xác người
      xác cờ
      xác máu.

      Những cái chết tức tưởi
     mắt trợn tròng
     không thể nhắm
     không kịp hiểu tại sao.

     Ai sẽ vuốt mắt cho miền Nam của tôi
     cho mẹ, cho cha
     cho chị, cho anh..

     Và, vá dùm tôi
     một vết thương lở lói
    một trái tim thương tật
    suốt đời
    không chở hết hận thù.






Trích từ Nhật Ký của Việt. Những ngày tháng Tư.

  
Ngày nầy. Năm ấy.


Ngày 24 tháng 4 

Buổi sáng, trời còn tối đen đã ba lô súng đạn lên GMC đi về hướng Trảng Bàng, Tây Ninh, nửa đường nghe pháo 130 ly nổ dọc theo xóm ấp hai bên đường, nó bắn để thị uy chứ xóm ấp hai bên đường đâu có đơn vị bạn nào ở đó, chỉ trúng chết dân thôi.
Tiểu đoàn đổ quân xuống Lộc giang để giải toả xã này. Nếu không được thì thằng nằm ngoài trại Tân Hoà cạnh bờ sông đi đứt vì mấy ngày nay bị pháo dữ lắm. Thằng em cũ của mày đấy. Tiểu đoàn trưởng nói. Đoàn văn Tiến- Tiến râu - đại đội phó của tôi trước kia, bây giờ qua làm đại đội trưởng của tiểu đoàn khác, lòng vòng rồi cũng gặp nhau. Nó bị vây mấy ngày rồi. Pháo dữ lắm anh, anh không vô được chắc mấy thằng em bị thương hôm giờ chết hết quá. Quên nói nó cũng là anh em kết nghĩa với tôi. Dân Huế chính gốc, râu quai nón, uống rượu bằng tô. Ngang tàng không ai bằng. 
Buổi chiều. Tiến quân qua cánh đồng ruộng khô bị khựng lại, liên đoàn báo xuống trên hướng tiến quân có đồn nghĩa quân bị đóng chốt ngay bên ngoài vòng rào, chỉ có hai ba chốt thôi nhưng mấy anh nghĩa quân chịu trận không ra được. Tiểu đoàn trưởng nói đào hố nằm. Đêm xuống, ông kêu bên trong đồn nằm yên không được nhúc nhích bắn chác gì hết. Ngoài này ông đích thân cầm ống dòm hồng ngoại tuyến chỉ huy trung đội thám báo bò vào đánh lựu đạn.

Ngày 25 tháng 4 

Cả tiểu đoàn nằm lại bố trí chờ cho dân trong xã chạy ra, không nhiều lắm vì tụi nó kềm không cho dân chạy ra. Nhưng vẫn phải chờ vì nếu vào sẽ đụng lớn, chỉ chết dân thôi. Lúc này pháo 130 li từ hướng Đức Huệ bên kia sông bắn qua, và từ Chà Rầy mật khu Bời Lời bắn tới. May sao từ sáng đến giờ chưa có em nào bị dính miểng. Mà miểng nào miểng nấy bằng cái tô, cái chén. Có điều họ cũng không bắn vào trong xã. Nhưng pháo nhiều quá. Tụi nó nằm trong xã bắn AT 3 và 82 không giật ra như mưa. ĐM...chắc hồi nào giờ tụi nó không được bắn. Lính chửi đổng. Từ đầu tháng đến giờ trời không mưa, nắng đổ lửa trên đầu.

Ngày 26 tháng 4 

Không có đường nào đánh ngang hông. Cả tiểu đoàn tiến theo hình chân chim vào mục tiêu. Lên được chút nào thì đào hố nằm lại chịu. Hai cây 155 của sư đoàn 25 nằm ở sân banh gần thánh thất Cao Đài bị pháo trúng, pháo 105 của quận Trảng Bàng cũng bị không khá gì hơn. Bây giờ chỉ còn đánh bằng hoả lực cơ hữu và khả năng tác chiến cá nhân mà thôi.
Đào hố cá nhân nằm hai bên con đường, pháo bắn lai rai dọc theo đường và bìa xã tử sang sớm đến giờ. Bây giờ thiếu tá tiểu đoàn trưởng bận rôn với dàn hoả tiễn của "ngài" dùng để phản pháo lại vị trí của mấy cây 130 li từ bên kia Vàm Cỏ Đông bắn qua. Hoả tiễn xin bên mấy xếp của Không quân. Phóng bằng ống phóng của trực thăng đặt trên xe Dodge. Hôm đóng quân trong nhà máy đường Hiệp Hoà năm trước, ông chỉ tấm bảng đồng ghi tên vài nhân viên gì đó trong nhà máy. Mày nhớ chỗ này nghe. Kiếm cho tao cái cưa sắt. Làm gì thiếu tá. Ăn trộm chứ làm gì mày. Đêm đó hai anh em ngồi cưa được một miếng lớn bằng hai bàn tay. Mấy hôm sau ngài ngồi hì hục mài đục dũa cả ngày. Sau đó ông hớn hở đưa tôi xem công trình hoàn tất là một bảng chia độ cái máy nhắm tự chế cho giàn phóng hoả tiễn của ông. Bắn xa vài cây số không biết sai lệch ra sao. Chứ lúc đánh "chốt" tầm xa 4,5 trăm thước bắn không trật chút nào. 
Trong khi người dân chạy loạn từ Tây Ninh về Sài Gòn, thì em chạy ngược dòng người, một mình một xe lên kiếm chồng. Không biết sao cũng mò ra hậu trạm. 
Trung uý Trình- đại đội trưởng Công Vụ chở em đến chỗ tôi đang bố trí quân. Đang pháo thế này mà chạy xe lạnh mỏ ác quá. Trình càu nhàu. Ông đặc biệt lắm thiếu tá mới để bà ấy vô chỗ này đó. 
Nhảy xuống hố cá nhân ngồi nói chuyện trong lúc pháo rải rác khắp nơi, em nói: anh ơi về với em đi. Ở Sài Gòn người ta đi nhiều lắm.
Tôi chỉ cho em thấy 3 trung đội đang bố trí phía trước. Em nghĩ, anh là cái đầu mà dễ dàng bỏ đi vậy à. Em im lặng, nắm tay tôi. Buồn, lúc nào cũng mang vẻ chịu đựng. 
Chở em ra ngoài quốc lộ 1, pháo nó vẫn bắn dọc theo hai bên đường. Lạ cái là xe đò vẫn chạy. Với dân mình, chiến tranh một lúc nào đó đã làm con người chai lì và cứng cỏi ít có người dân nước nào sánh kịp. Tôi đưa em lên xe. Vì không dám để em chạy Honda một mình trên đường với quá nhiều bất trắc. Chiếc xe sau này chuyển quân đi, phải gởi lại Tha La xóm đạo. Mất.

Ngày 27 tháng 4 

Chiếm được mục tiêu hoàn toàn vào buổi chiều. Có một chiếc Hoả Long C130 yểm trợ rất cần mẫn. Đào hố nằm nghỉ lại trong làng, bên cánh trái có tiểu đoàn 1/50 của sư đoàn 25. Cũng nhẹ bớt phần nào. Đi vòng quanh kiểm soát, thấy nhà cửa, dân chúng thật là bi thảm. TĐT kêu tôi đi với ông ra bìa làng, trèo lên xà ngang của một căn nhà ngói lớn để trổ nóc nhà, quan sát mục tiêu cho vào cứu "thằng em". Chắc tiền sát viên của họ trông thấy, nên bắn gần chục trái 130 li xung quanh. Hai anh em bị sức nổ ép rớt từ trính nhà xuống. Nằm một hồi mới lóp ngóp bò dậy được. Phước đức ông bà không bị sao cả.
Nhưng nỗi lo là làm sao vào cứu "thằng em"ra được. Từ bìa làng tới căn cứ đó là một cánh đồng ruộng khô rất lớn. Chạy hết tốc lực may ra tấp vào được mấy bờ đê. Còn không thì đưa lưng ra cho pháo chắc chết hết.
Rồi đến sẩm tối, sau cả ngày bò lăn, lê lết trên cánh đồng, rồi cũng đánh bật hết các chốt chung quanh căn cứ Tân Hoà, "bắt tay" được với thằng em bơ phờ râu ria hốc hác. Nó bị vây và pháo gần nửa tháng chứ ít gì. Anh biết không? Đất trong trại bị pháo riết rồi tơi như cát hết. Nó nói. Mừng cho nó là không có binh sĩ nào chết. Chỉ toàn bị thương. Không có chú nào bị nặng lắm. Nhưng cũng chở đầy một xe GMC thương binh. Đại đội tôi bị thương tám binh sĩ và một chuẩn uý mới ra trường. Từ hôm 24 đến giờ chỉ toàn bị thương. Không có ai chết. Hên quá.

Ngày 28 tháng 4 

Trung tâm hành quân báo là khu ngã ba Vựa heo, tức phía sau lưng, bị Việt cộng đóng chốt. Nên tiểu đoàn 1/50 được lệnh quay trở ra đánh giải toả. Có nghĩa là chúng tôi sẽ nằm trong tình trạng khó khăn hơn với mục tiêu phía trước. Tiểu đoàn trưởng nhận toàn những tin không vui, ông than thở: chúng nó đánh giặc như c...Thấy tình hình mà tao muốn tự tử quá. Pháo bắt đầu nặng hơn.
Vẫn còn chiếc Hoả Long C130 bao vùng bắn yểm trợ. Nhưng đột nhiên, khoảng 9 giờ tối, khi chiếc này đang chăm chỉ bắn thì cả một rừng đạn phòng không bắn lên nổ như sao trên trời. Đến lúc đó chúng tôi mới biết là Bắc quân đã ở đầy quanh Đức Huệ. Chắc phải vài chục khẩu phòng không bắn lên chứ không ít. Giờ này mới ló mặt ra, chắc để dằn mặt thị uy.
Lầm lủi trong đêm. Chúng tôi quay ngược trở ra để giải cứu cho bộ tham mưu chi khu Trảng Bàng. Trong lúc trung đội thám báo đang cắt dây kẽm gai sau lưng chi khu để bên trong có đường ra. Mấy cha pháo binh tự nhiên bắn trực xạ ra hai trái. May mà không có ai bị thương.

Ngày 29 tháng 4
Kéo quân vào trú trong Tha La xóm đạo. Tới giờ thì đã hoàn toàn mất liên lạc với những đơn vị chung quanh, kể cả trung tâm hành quân. Kệ, cứ kéo vào quán uống cà phê cái đã. Tha La cảnh đẹp thật, vào đó mát rượi với những khóm Trúc hai bên con đường làng. Hèn chi được Dzũng Chinh đưa vào nhạc.
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng dự tính sẽ đặt mìn giật sập cây cầu từ ngoài bưng vào Tha La, để bộ binh và tăng của Bắc quân không vào theo ngã này được. Nhưng sau thấy chỉ thiệt hại cho xã và dân. Nên thôi. 
Chợp mắt được hơn tiếng đồng hồ sau mấy ngày không ngủ. Sẽ di chuyển đêm để về Hóc Môn lập phòng tuyến cuối cùng
Điều đáng nói là khi đơn vị triệt thoái. Ngoảnh nhìn lại lần chót ráng chiều tuyệt đẹp khắp tàng cây cọng cỏ, trên những rặng Trúc vàng khắp Tha La. Phía ngoài xa kia, nơi đầu cầu bìa làng. Tôi thấy trong đồn nghĩa quân, người lính vẫn ngồi trên vọng gác. Và tôi biết chắc rằng, anh hẳn đã nghe tường tận những gì diễn biến qua đài phát thanh Sài Gòn mấy ngày nay. 
Đó là hình ảnh cô đơn, lẻ loi nhất, nhưng cũng đầy ấn tượng bi hùng nhất mà tôi không bao giờ quên được. Đó chính là những gì mà người ta hay nói về. Đó là Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.

Ngày 30 tháng 4
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4. Toàn đơn vị di chuyển về hướng Hóc Môn, ngoại ô Sài Gòn với mục đích lập một phòng tuyến tử thủ, cho dù liên lạc vô tuyến với trung tâm hành quân và các đơn vị bạn không còn nữa. Đâu khoảng xế trưa mở radio nghe Trịnh Công Sơn hát Nối vòng tay lớn mà không khỏi chửi thề. Cả tiểu đoàn đi âm thầm dọc theo bưng Thái Mỹ,sau này nghe nói có tên là nông trường Lê Minh Xuân. Anh và một số sĩ quan mà tôi không rõ đơn vị đi theo đại đội chúng tôi. Đến ba giờ chiều thì chạm địch. Anh bị đạn trúng ngực. Biết là không thể sống được trong tình trạng tuyệt vọng đó, anh nói tôi giữ cái bóp giấy tờ để đưa lại cho vợ của anh. Tôi đã nợ anh một lời hứa và xin anh tha lỗi. Vì đến cuối ngày khi tôi bị bắt thì tất cả những đồ đạc giấy tờ cá nhân, áo trận có cấp bậc của mọi người bị lột xuống chất thành đống và họ đã đốt tất cả. Tất nhiên cái bóp giấy tờ của anh cũng chung số phận. Tôi không quen anh để biết nhà hầu sau này có thể tìm kiếm. Chỉ biết anh là đại úy Lê văn Cang (hay Can ??) trưởng ban 3 Hành quân của quận Trảng Bàng. Xin lỗi chị Cang rất nhiều. Cũng không biết chị có còn sống sót qua cơn binh lửa đó hay không. Ngày ra tù tôi cũng cố gắng hỏi thăm, nhưng biết đâu mà tìm trong thời điểm đó. Thôi, nếu chị còn sống và nếu tình cờ đọc note này, thời gian qua đi tôi nghĩ những đau đớn cũng đã phai nhạt, nhưng nếu chị rơi nước mắt nhớ anh, thì cũng an ủi là trong giờ phút cuối cùng anh Cang vẫn nhớ đến chị và các con: “anh đưa giùm cho vợ tôi, nói là tôi yêu bả”.
Đại đội tôi trong thời điểm cuối này nhiều người đã bị thương rất nặng, tôi không nghĩ họ sẽ được chữa trị và sống sót. Những thương binh đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà còn bị đuổi ra ngoài, huống hồ những kẻ bị thương ngay tại trận địa. Xem ra tôi đã mắc nợ và có lỗi với rất nhiều người.
Còn về thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Ông đã không vào cùng chỗ với chúng tôi, mà băng trong lau sây của bưng Thái Mỹ về nhà gần Sài Gòn. Đó là một quyết định khôn ngoan. Ông quá nhiều chiến công. Bắt được ông, điều chắc chắn đó là cái chết.



Ngày đó 2 tháng 5.
Tôi và những người bạn sĩ quan bị bắt vào giờ thứ 25, đêm 30-4 tập trung tại một trường học. Trưa ngày 1 tháng 5 được ra gặp em. Em mắt khóc tiều tuỵ, đứng cách nhau hàng rào kẽm gai. Mất nước rồi anh ơi. Câu nói lập đi lập lại của em ngập với chan hoà nước mắt được đứng với nhau 15 phút ngắn ngủi, chẳng nói được với nhau thêm điều gì. Cuối tháng chưa có lương, chỉ có đúng mười ngàn đưa cho em vì biết chắc rằng sẽ chẳng có gì để mua bằng tiền của miền Nam Việt Nam được nữa.
Sáng 2 tháng 5 . Bị dẫn đi về hướng bờ sông Vàm Cỏ Đông. Không biết sẽ đi đâu, chúng dẫn đi dọc theo thị xã, vẫn có người dân chạy theo dấm dúi cho chúng tôi chiếc áo, đôi dép, mặc cho đám vệ binh hầm hừ quát tháo. Nhớ hoài cô bé mặc chiếc áo sơ mi còn huy hiệu của trường trung học, chạy theo đưa cho tôi chiếc bánh tét và đôi dép, nước mắt đầm đìa: Anh ơi, mất nước rồi. Y hệt như câu em của tôi hay nói.
Cuối cùng sau hơn nửa tháng đi bộ, băng qua những xóm làng giáp biên giới bị Việt Cộng chiếm từ 72. Những đứa trẻ ốm gầy khẳng khiu, quần áo tả tơi nhưng vẫn chạy theo đám tù binh ném đá và chửi: Tù binh ngoan cố. Chúng tôi tới một trại tù nằm bên kia biên giới Miên, giáp Phước Long. Trại tù đầu tiên của nhiều lần chuyển trại tù sau đó. Trại Nước ngập. Cái tên nghe nhiều khủng bố đe doạ. Bước vào trại, kinh hoàng thêm khi nhìn thấy những thân hình gầy guộc,với những khuôn mặt xanh xao như ma đói, không còn chút sinh khí nằm trên chõng tre, sâu dưới tàn lá của cây rừng rậm rạp, mà tia nắng mặt trời không qua lọt. Nơi đây đã giam giữ những người tù binh trong chiến tranh.
Tôi và em. Đến khi gặp lại nhau lần đầu tiên khi được thăm của tháng 8 năm 1977. Mới biết rằng trong buổi sáng ngày tháng 5 tang thương đó. Em đã chạy theo tôi băng đồng, qua suối, qua những trảng ruộng khô nắng bốc khói của ngày tháng 5 để mong được nhìn thấy chồng lần cuối. Vì biết đâu sẽ không bao giờ thấy nhau lần nữa.
Thương em như câu hát: ơn em thơ dại từ trời, thơ dại từ trời, từ trời theo ta, theo ta từ trời. Xuống biển lượm đời, lượm đời ta lên ...
Và phần thứ hai, xin các bạn đọc những cảm xúc, ý nghĩ của em tôi ngày ấy. Trong binh biến tao loạn mà chạy từ Sài Gòn xuống kiếm chồng bất kể chết. Và tôi chắc chắn rằng trong thời gian đó. Cũng có trăm ngàn người vợ lính cơm nắm cơm gói, không quản thân mình cam go cùng khổ để kiếm cho ra người chồng lính của mình dù rằng chỉ còn là một thân xác rữa nát.


Trong khi đơn vị anh đang lo đánh  giải tỏa các đơn vị bạn, bị đại bác của Bắc quân nã kinh hoàng,  thì  Sài gòn, đã rơi vào tay Cộng Sản. Không phải tự dưng rơi mà chính chúng ta dâng cho bọn chúng. Hàng triệu người chạy trốn Cộng sản..hàng chục, hàng trăm ngàn người chết trên đường chạy trốn, chết trong trại tù, trong những vùng kinh tế mới. Hàng nghìn Thương phế binh còn sống vất vưởng tại quê nhà..
Ngày ấy, và bây giờ. Bốn mươi mốt năm..

Không ai trong chúng ta được quên. Không. Cho đến chết.


TUESDAY, APRIL 20, 2010

10 Ngày Thứ Tư 30.4.1975 / Ngày Cuối Cùng

Cuối Cùng
NGÀY THỨ TƯ,
3O THáNG 4
Cuộc di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, 
tuy nhiên con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều.
 Vào lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. 
Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: "Đây là lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên được với Đại Sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và Đại Sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phát đi ám hiệu “Tiger, Tiger, Tiger" để báo cho biết rằng ông Martin đã được di tản".
Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại Sứ Martin"bị hộ tống” lên trực thăng
 mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trục thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến
 đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp ti lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại Sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 ng­ời Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.
Sau khi Đại Sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó vẫn còn gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 3O tháng 4 năm 1975 thì chiếc trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn mang theo Trung sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của tòa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách “ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đã chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam thì cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.
Duơng Văn Minh Ra Lệnh Đầu Hàng
Vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, "Tổng thống” Dương Văn Minh đã đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đã tuyên bố như sau:
"Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa hợp hòa giải gữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đậu thì ở đó.
“Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách Mãng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào."
“Thủ tướng “Vũ Văn Mẫu cũng đọc lời kêu gọi mọi tầng lớp dân chúng hãy chào mừng "ngày Hoà bình cho Dân tộc Việt Nam" và ra lệnh cho mọi công chức phải trở về nhiệm sở. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực VNCH nhân danh Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của " tổng thống" Dương Văn Minh về vấn đề hưu chiến.
Dương Văn Minh cũng đưa ra lời kêu gọi những "người anh em bên kia" hãy ngưng mọi hoạt động gây hấn và ông ta nói rằng chính quyền của ông đang chờ đợi được gặp gỡ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để cùng thảo luận về " buổi lễ bàn giao quyền hành và để tránh đổ máu cho nhân dân." Dương Văn Minh không hề đề cập đến cũng như không đưa ra lời kêu gọi nào với Cộng sản Bắc Việt, lúc đó dường như ông cố tình làm như không biết việc chính Cộng sản Bắc Việt mới là những người lãnh đạo hàng ngũ những " người anh em bên kia" của ông.
Ông Dương Văn Minh chỉ kêu gọi những “người anh em bên kia" trong cái gọi là "chính phủ cách Mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam", chắc là ông ta đã nghĩ đến những người lãnh đạo trong cái chính phủ này như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Nguyễn Thị Bình v.v, nhưng ông ta không biết rằng những người mà ông ta kêu gọi đó không hề có một quyền hành nào, còn những kê có quyền hành lúc đó như Lê Đức Thọ, Ván Tiến Dũng, Phạm Hùng, ba ủy viên Bộ Chính trị đại diện cho Hà Nội đang thực sự nắm toàn quyền trong chiến dịch Hồ Chí Minh thì ông ta không có đả động tới.
Thượng Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt và đồng thời cũng là Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam Việt Nam lúc đó đang nghe lời kêu gọi của Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn. Ngay sau đó, thay vì tiến về Sài Gòn để "bàn giao” như lời kêu gọi của Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho "tất cả các quân đoàn, các vùng quân sự và mọi đơn vị các cấp phải tiến càng nhanh càng tốt đến các mục tiêu đã được chỉ định ở sâu trong các đô thị cũng như các tỉnh, kêu gọi địch quân đầu hàng, giao nạp vũ khí và bắt giữ tất cả các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở lên; đập tan ngay tức khắc mọi mưu toan kháng cự. "
Ông "Tổng Thống” Dương Văn Minh không thể nào biết được rằng trưa ngày hôm đó, Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương đã gửi điện văn số 516/TV ra lệnh cho các cấp lãnh đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh phải "bắt địch đầu hàng vô điều kiện":
"vấn đề hiện nay là bắt địch đầu hàng không điều điện chứ không phải cử người thương lương với địch để ngưng bắn tại chỗ như có nơi đã làm.
Những nơi địch chịu đầu hàng: ta kéo quân vào bắt địch, hạ vũ khí và tước vũ khí của chúng, giải tán quân đội và bộ máy chính quyền của địch, phát động quân chúng truy kích, tiêu diệt bọn gian ác và phản động còn ẩn nấp chống lại ta.
Những nơi địch không chịu đầu hang: ta cần phát động quần chúng nổi dậy, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa kết hợp với mũi tấn công đánh vào các điểm then chốt của địch, tiêu diệt những đơn vị ngoan cố chống lại ta, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện.
Phải đặc biệt chú ý chiếm lĩnh, khống chế các sân bay không để chúng sử dụng các máy bay để chống lại ta và tẩu thoát".*198
Ngoài bức điện văn nói trên, chính Võ Nguyên Giáp thay mặt cho Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương cũng đã gửi bức điện văn số 151 ngày 3O tháng 4 năm 1975 gửi cho "anh Sáu” tức là Lê Đức Thọ, "anh Bảy” tức là Phạm Hùng, "anh Tuấn" tức là Văn Tiến Dũng, "anh Tư” tức là Trần Văn Trà và "anb Tấn" tức là Lê Trọng Tấn nội dung như sau:
“Theo ý kiến của Bộ Chính Trị và Quân ủy trung ương,
1.việc chỉ đạo Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia định (kể cả những mệnh lệnh, tuyên bố) giao cho Trung Ương Cục và Quân Ủy Miền phụ trách.
2.Hôm nay sẽ ra một lời kêu gọi của Bộ Chỉ Huy Quân giải Phóng. Chúng tôi đang dự thảo và cho phát.
3.Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà chỉ với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân.
*198: Đại Thắng Mùa Xuân, trang 329-331.
4. Sẽ tuyên truyền lớn về thắng lơi giải pbóng Sài Gòn-Gia Định, nhưng nhấn mạnh cuộc chiến đấu đang tíếp tục nhằm hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đã chỉ thị chuẩn bị ngày mừng chiến thắng, sau khi hoàn thành việc giải phóng miền Nam sẽ tổ chức thống nhất cả nước. Anh Tố Hữu sẽ có điện cho các Anh.
5. Mười một giờ đã nhận được tin ta cắm cờ trên Dinb Độc Lập.
Gửi các anh lời chúc đại thắng lơi.
Các anh Bộ chính Trị rất vui, rất vui . . .
VĂN*199
Như vậy thì trước khi xe tăng của Cộng sản Bắc Việt ủi cổng sắt- đã được mở rộng- để vào chiếm Dinh Độc Lập, nơi mà ông "Tổng thống” Dương Văn Minh cùng với các ông "phó Tổng thống” Nguyễn Văn Huyền, "thủ tướng" Vũ Văn Mẫu cùng với một số nhân viên trong "nội các” của họ để chờ “bàn giao” cho Cộng sản thì các giới lãnh đạo ở Hà Nội đã quyết định không coi ông như là "tổng thống” mà chỉ là "một ngưới đã sang hàng ngũ nhân dân," tức là một kẻ đầu hàng, "đầu hàng không điều kiện" như đã nòi trong văn thư số 505 cùng ngày. Các sĩ quan Cộng sản cấp dưới cũng đã nhận được lệnh này cho nên đối với họ thì những người tự nhận là tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng v.v. đang ngồi trong Dinh Độc Lập chỉ là những kẻ đầu hang mà thôi. .
Bởi vậy, vào lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 của quân
*199: văn kiện Đảng: trang 332-333.
đội cộng sản Bắc Việt ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, "Tổng thống" Dương Văn Minh thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội Nhân dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp:
“Thưa Quan Sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”.
Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa này là Thượng Tá Bùi Tùng đã dùng danh từ "mày tao “ xằng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:
“Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày làm gì có quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng này đây.
Ngoài ra tao xác nhận với mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mày không được ngồi xuống!” *

Người thuật lại những lời đối thoại trên là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, một người rất thân cận với ông Dương Văn Minh. Vào năm 1963 ông là Thiếu Tá ngành Thiết giáp, đã theo tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đã được Dương Văn Minh tin cậy cử vào phái đoàn đi vào Chợ Lớn "đón” ông Diệm. Trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết trên xe thiết vận xa M-113*200 Dương Hiếu nghĩa : "Hồi Ký Dang Dở," kể lại theo lời của Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng Gò Vấp, cựu dân biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn. Xuân Thời Luận, Califonia 2004, trang 141.
Và từ đ
ó cho đến nay, có nhiều người vẫn còn có nghi vấn là ông Dương Hiếu Nghĩa có thể là một trong những người có trách nhiệm trong cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chắc chắn rằng ông Dương Hiếu Nghĩa không phải là kẻ thù hay có hiềm khích với ông Dương Văn Minh mà đặt điều viết lại sự đối thoại trên đây nếu chuyện đó không có thật.
Chiều hôm đó, Cộng sản không cho phép Dương Văn Minh đọc lởi đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ Tổng Thống của VNCH, họ đã áp giải ông đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời kêu gọi như sau:
"Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bổ chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đền địa phương trao lại cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam".
Ngay buổi chiều ngày 30 thỏng 4, Đài Phát Thanh Giải Phóng loan báo kể từ nay, thành phố Sài Gòn được cải danh là " thành Phố Hồ Chí Minh”.
Kể từ ngày hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn đã mất tên, Sài Gòn không còn nữa.
Kể từ ngày hôm đó, Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa.
Và cũng kể từ ngày hôm đó, tại Miền Nam Việt Nam Tự Do cũng không còn nữa.

Trích trong blog " Việt Nam thời chinh chiến " .
 Blog được thực hiện bởi Phạm Hoà ( Nha Kỹ Thuật ) ." vietnamchinhchien.blogspot.com"
 Xin thắp một nén hương tưởng tiếc cho những người lính VNCH đã " vị quốc vong thân " Cho những vị tướng, tá đã tuẫn tiết , giữ khí phách anh dũng khi nước mất nhà tan.
 Cho những người lính chết trong ngục tù CS...
Và, lòng tri ân sâu sắc với những người Thương Phế Binh đã gửi lại, một phần xương thịt trên chiến trường để bảo vệ mảnh đất miền Nam tự do. 

Friday, April 29, 2016

8034. ĐẤT NƯỚC CHỈ LÀ CÁI AO TÙ HAY BÃI THẢI CHẤT ĐỘC?

Posted by adminbasam on 29/04/2016
Phạm Khánh Chương
29-4-2016

Trong thông cáo báo chí, Thứ trưởng Bộ TN & MT Võ Tuấn Nhân cho rằng việc cá chết hàng loạt hoặc do chất độc từ hoạt động của con người gây ra hoặc do hiện tượng tảo nở hoa. Ông ta nói rằng đó là nhận định sơ bộ của các nhà quản lý và các nhà khoa học.
Việc cá chết hàng loạt trải dài từ Hà Tĩnh đến Huế-Thừa Thiên và cách đối phó với dư luận của lãnh đạo Cộng sản VN đã thể hiện sự vô trách nhiệm, bất tài và bao che của họ.
Câu hỏi đặt ra là, ngoài nguyên nhân độc tố, “các nhà khoa học” nào trong cuộc họp kín đó đã nhận định là do “hiện tượng tảo nở hoa”?
Nhận định về nguyên nhân “tảo nở hoa” của “nhà khoa học” thiếu kiến thức, hay có thể nói là ngu dốt nào đó đã làm cho toàn bộ cuộc họp kín, quan trọng mà cả nước đang chú tâm theo dõi thành một cuộc họp của một “hội kín”. Hay nói khác hơn, đó là cuộc họp của các thành viên Mafia tìm cách thống nhất ý kiến, nhằm đối phó với tình thế hơn là tìm biện pháp giải quyết.
Hiện tượng tảo nở hoa hay còn gọi là thủy triều đỏ là hiện tượng có thể quan sát bằng mắt thường. Một ngư dân bình thường cũng có thể nhận biết điều đó chứ không cần đến kiến thức của những “nhà khoa học”. Giả sử cả hai (độc tố và tảo nở hoa) cùng hiện diện một lúc, tảo sẽ chết, trôi dạt vào bờ và bốc mùi khủng khiếp. Hiện tượng này không hề thấy ở hiện trường nơi cá chết hàng loạt từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế.
Ở đây chưa đặt vấn đề Formosa có là thủ phạm chính trong thảm họa môi trường tại 4 tỉnh miền Trung hay không, nhưng sự lúng túng, bao che của các quan lại từ trung ương đến địa phương đã tạo ra một sự nghi ngờ lớn.
Ai ở Hà Tĩnh hay các Bộ liên hệ mà không biết Formosa là miếng bánh to của đảng? Cả một guồng máy tuyên truyền của đảng CS đã từng đưa nó lên tận mây xanh. Chính vì thế mà không ai dám làm gì, biết làm gì, đùn đẫy nhau, chỉ tuyên bố chung chung vì không ai biết nội bộ lãnh đạo của đảng CS quyết định như thế nào. Và cũng chính vì thế mà Giám đốc ngoại giao Chu Xuân Phàm của Formosa mới dám bộc trực nói, “chọn cá hay nhà máy thép”.
Khi bị phóng viên hỏi tác động của kim loại nặng đối với môi trường, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân đã gạt ngay không cho hỏi, lấy cớ “câu hỏi làm tổn hại đất nước”! Là Thứ trưởng Bộ TN&MT, ông ta biết quá rõ Formosa phải sử dụng tới kim loại nặng. Ông ta sợ! Và có lẽ, đảng ông ta cũng sợ!
Thử nhìn lại các thảm họa mội trường nghiêm trọng trên thế giới do kim loại nặng gây ra:
Năm 1932, tại vịnh Minamata, Nhật Bản, nước thải có chứa thủy ngân được thải ra biển bởi nhà máy hóa chất Chisso tích tụ trong sinh vật biển, dẫn đến hậu quả dân cư bị ngộ độc thủy ngân. Nhưng mãi đến năm 1952, sự cố của ngộ độc thủy ngân đầu tiên mới phát hiện ra do cư dân tiêu thụ cá bị ô nhiễm thủy ngân, dẫn tới hơn 500 trường hợp tử vong. Kể từ đó, Nhật Bản đã có các luật về môi trường nghiêm ngặt nhất trong thế giới công nghiệp.
Ngày 01/11/1986, hãng bào chế dược phẩm Sandoz dùng nước có chứa thuốc diệt nấm pha thủy ngân để dập tắt một đám cháy lớn tại thượng nguồn sông Rhine (giữa Basel, Thụy Sĩ và Bingen, Đức). Hậu quả là làm cá chết kéo dài trên 100 km. Cú sốc của sự ô nhiễm môi trường này quá lớn khiến sau đó, nhiều dự án FEA (Finite Element Analysis) đã được thực hiện để ngăn ngừa những trường hợp tương tự xảy ra (xem thêm: “Ô nhiễm của sông Rhine tại Basel / Sandoz”).
Năm 1998-1904, khu bảo tồn thiên nhiên Doñana, ở miền nam Tây Ban Nha bị ô nhiễm trầm trọng gây thảm họa môi trường sau khi đập chứa chất thải thuộc vùng mỏ gần khu bảo tồn bị vỡ. Nước có chứa hóa chất độc hại bị thoát ra từ đập có chứa những độc tố bao gồm lưu huỳnh, chì, đồng, kẽm và cadmium đã chảy xuống con sông Guadimar. Các chuyên gia ước tính rằng bãi chim lớn nhất châu Âu, cũng như nông nghiệp và thủy sản của Tây Ban Nha, sẽ bị tổn thương vĩnh viễn.
Trở lại với vụ cá chết tại Hà Tĩnh, nếu so với vụ Sandoz làm cá chết kéo dài hơn 100 km, thì sự ô nhiễm  tại Hà Tĩnh là thảm họa môi trường đặc biệt nghiêm trọng khi cá chết hàng loạt kéo dài hơn 200 km bờ biển. Khi sự việc xãy ra, những gì mà người ta mong chờ chỉ là những chỉ đạo chung từ lãnh đạo.
Sự chỉ đạo chung chung xuất phát từ tâm lý sợ trách nhiệm, kéo theo tâm lý chờ đợi. Sự chờ đợi được “chỉ đạo cụ thể” đã khiến cho cấp Bộ, địa phương lúng túng, không biết phải làm gì cụ thể, để mặc cho dân địa phương tự xoay sở, giải quyết trong thời gian dài. Điều này thể hiện sự vô trách nhiệm và bất tài của cả guồng máy nhà nước CSVN trong việc đối phó với tình huống nghiêm trọng của đất nước.
Trong vụ ô nhiễm sông Rhine, vụ Sandoz ở trên, chỉ trong vòng 10 ngày, độc tố trong nước đã di chuyển theo chiều dài của sông Rhine hơn 100 km tới biển Bắc, làm chết hàng tấn cá, một số loài bị xóa sổ hoàn toàn (tại VN, theo báo Dân Trí, ngày 28/4, khoảng 80 tấn hải sản đã bị chết). Mặc dù sau đó vài năm, tình hình sông Rhine được phục hồi, nhưng những hóa chất độc hại đã theo nước thấm vào đất vẫn gây ra một tỷ lệ tử vong lớn cho động vật hoang dã ở hạ nguồn. Các nhà khoa học hy vọng là tới năm 2020, sông Rhine mới có thể an toàn để con người bơi trở lại được.
Không nhà nước có trách nhiệm nào trên thế giới có thể thờ ơ trước sự ô nhiễm môi trường. Trong khi đó tại VN, khi dân đang lo lắng, sợ hãi, lãnh đạo Hà Tĩnh vẫn thản nhiên bầu bán HĐND tỉnh. Sau 20 ngày xảy ra thảm họa, ngày 22/4, TBT Nguyễn Phú Trọng đi thăm Hà Tĩnh, nơi xảy ra vụ cá chết hàng loạt, vẫn điềm nhiên, không có một phát biểu cụ thể nào (?). Cho tới nay, dám chắc không có chính quyền địa phương nào có thể biết đã có bao nhiêu xe tải đã chở cá chết bị nhiễm độc đi tiêu thụ nơi đâu.
Nhìn cách đối phó của nhà nước CSVN trong vụ Hà Tĩnh vừa qua, người ta liên tưởng đến những hồ chứa bùn đỏ, hồ chứa chất thải quặng sắt và titan tại Tây Nguyên hiện nay, đang như những thảm họa treo lơ lững trên đầu dân miền Trung, và lo lắng tự hỏi, khi nào thì những thảm họa đó trở thành sự thật, ập xuống đầu dân?
Đất nước không phải là cái ao tù của đảng CS, cũng không phải là bãi thải hóa chất của Tàu. Khi môi trường bị phá hủy, nó sẽ kéo theo sự phá hủy sự sống của tất cả mọi thứ, không phải chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. Sự vô trách nhiệm, bất tài, bao che của nhà nước CSVN đối với môi trường sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho con người và đất nước mà không ai có thể đoán trước được.

Tháng Tư, sau bốn mươi mốt năm miền Nam rơi vào tay Cộng sản, Việt Nam bây giờ, không còn từ ngữ nào để diễn tả, báo chí nhan nhản những tệ nạn cướp của giết người, thức ăn ướp hoá chất độc hại .. và vụ cá chết ở các bãi biển miền Trung, cho đến nay, chính quyền CS bao che,dấu diếm, loay hoay hèn hạ như ăn cá mắc xương...Bài nầy, sáng 29,tháng tư,  tình cờ đọc trong trang anh Ba Sàm.. Mình đang tự hỏi, rồi, mọi thứ sẽ đi về đâu ? Người dân có dám đứng lên đấu tranh đòi quyền sống, quyền thở trong môi trường trong sạch,trong chế độ công nhận quyền con người  hay, mọi thứ, rồi cũng trở về vị trí cũ ? CS đã dâng từ từ từng phần nước VN cho Tàu, và hoàn toàn lệ thuộc dưới quyền cai trị của Tàu.  chỉ là vấn đề thời gian.
Thương quá, các em của tôi...

Wednesday, April 20, 2016

Trần Trung Đạo " Câu hỏi tháng Tư"

Trần Trung Đạo " Câu Hỏi tháng Tư"


Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”

Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.

Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị Chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.

Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu.

Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”  hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.

Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.

Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.

Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.

Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị  Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.” 

Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?

Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN.

Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.” 

Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.

Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?

Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.

Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ, lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.

Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone“Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.

Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.

Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp dân tộc”.

Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ". 

Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên?

Chữ "nước" trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.

Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc chiến “giải phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.” 

Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.... Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.

Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị tiêu diệt không thương xót.

Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.

Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.

Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?

Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây.  Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng không đủ can đảm để thừa nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.

Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.

Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.

Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.

Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.

Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.

Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.

Trần Trung Đạo




Cám ơn Trần Trung Đạo về " Câu hỏi tháng Tư" Em đã trả lời dùm cho độc giả, những điều mà hơn bốn mươi năm, nó là nỗi đau của cả một dân tộc, và sự chiến đấu cho một nền tự do, sự hy sinh của người lính VNCH không bị lãng quên. Lịch sử sẽ trả lại sự thật. "Như lịch sử đã chứng minh. Chính nghĩa bao giờ cũng thắng." ( trích)
Trần Hoài Thư

Văn chương cuối cùng bắt đầu từ đây


Từ đây là cái cõi mồ với những quan tài chưa đậy nắp này. Từ đây là những chiếc xe lăn, những ông cụ bà cụ khó nhọc dùng tay hay dùng chân để tự giúp hai bánh lăn vòng. Từ đây là phận đời cuối cùng, dường như để chứng minh tại sao sự ra đời lại oa oa tiếng khóc. Từ đây, ôi cuộc đời quá sức yêu dấu, và hạnh phúc thay cho những người vẫn còn khỏe mạnh, chân còn bước, tay còn nắm, trí óc vẫn còn minh mẩn...

Bây giờ thời gian không còn nhìn trước mặt mà nhìn lại đàng sau. Bởi trước mặt tôi đã thấy trước rồi. Một người như Y. cẩn thận hơn ai, cử kiêng hơn ai, tập tành hơn ai, ngày nào cũng đi bộ, ngay cả bây giờ tóc vẫn còn đen nhánh, vậy mà tự nhiên ngã lăn ra một lần, hai lần, ba lần, để cuối cùng phải 24/24 liệt giường liệt chiếu. Ngay cả hai bà lão cùng phòng với Y., ngủ li bì, ngủ quên ăn, rồi một hôm tự nhiên ngủ luôn không bao giờ dậy nữa. Và những ông lão bà lão mà tôi gặp, từ từ biến mất. Cứ mỗi lần có người ra đi là y tá, trợ tá đến tất cả phòng và khép cửa lại. Họ không muốn cho những người trong phòng thấy vì họ sợ ảnh hưởng tâm lý.Nhưng họ không thể che mắt tôi. Bởi tôi là kẻ ngoài cánh cửa.

Tôi đã bắt đầu trở thành một tay nội trợ chánh hiệu.. Nội trợ cho một người xem như mất đi phần nào vị giác, không còn ham thích ăn uống nữa. Bây giờ 4 chữ Cao lương mỹ vị xem như  vô nghĩa. Tôi phải nấu món nào cho hợp với khẩu vị của người bệnh. Có khi hôm nay  người bệnh thích nhưng ngày mai người bệnh không màng đụng tới. Có khi tôi cảm thấy ngon nhưng người bệnh chê. Nhiều khi quá nóng, tôi không cầm cơn giận, bỏ mặc Y. đi ra ngoài phòng khách. Nhưng sau đó, nghĩ đến cảnh một người bị thua thiệt quá nhiều, tôi lại trở vào phòng. Nghĩ nên thương người bệnh hơn. Tại bịnh chứ đâu phải tại Y. muốn.
Có lẽ việc nấu nướng này là một vấn nạn lớn nhất của tôi lúc này. Tiền bạc đổ ra hơi nhiều để mua gia vị hay thực phẩm. Nhưng phải nấu món gì, nấu cách làm sao, nêm thế nào trong khi nuốn có đồ gia vị hay thức ăn, thì phải lái xe khoảng 3 tiếng đồng hồ qua tiểu bang cạnh...
Trời ơi, sao mà vấn nạn cứ lôi tôi ra mà buộc mà tròng nhiều quá hở Trời. Nếu do nghiệp thì nghiêp ai đây. Của tôi hay của Y ?... Tôi muốn khùng khi thấy nồi thịt kho tôi làm theo lời chỉ dẫn từ Xuân Hồng, để nguyên từ ngày này qua ngày khác. Tôi đau xót khi phải đổ những thức ăn lâu ngày... Tôi  không thể nào vét hết, nuốt hết, dù tôi đã từng hiểu cái đói là thế nào trong trại tù... Tôi đã từng nhào đến một thau cơm chó nhão nhẹt để mà ngấu nghiến trong trại khổ sai rồi mà. Tôi không thể trách Y. Y. đâu có gì lỗi. Tại cái bệnh chó má này. Nó cứ âm ỉ sinh ra những biến chứng khiến bệnh nhân dần dần bị tước đoạt hết: từ sự di động của tay chân đến vị giác rồi tri giác...

Nhưng mà tôi không đành để Y. đói được.  Tôi năn nỉ con tôi khi nó về thăm mẹ nó. Con rán giúp ba, bắt mẹ ăn... Ba chịu thua rồi.

 Địa phương tôi ngụ không có tiệm VN. Hôm qua chạy tìm bánh hỏi khô các các tiệm Tàu nhưng chịu thua. Y. cứ nhắc đến bánh hỏi thịt nướng mà chị bạn có nhả ý làm cho Y.. Chưa bao giờ tôi thấy sự cần thiết của cộng đồng như lúc này.  Nếu mà tôi ở bên CA hay Houston thì đở cho tôi biết bao nhiêu !

Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi bắt đầu chú tâm vào nghệ thuật nấu nướng. Có điều bà giám khảo của tôi là một bà thầy khó tánh nhất trần gian. Bà dùng cái lưỡi đắng miệng khô để chấm điểm, và tôi chỉ còn cách là nói láo: Món thịt nướng này do một người đầu bếp có tiếng nhất ở Cali làm. Tôi nhờ người độc giả TQBT gởi mua đấy...

Bây giờ tôi mới hiểu tâm trạng của những bà mẹ, người vợ khi nấu ăn cho toàn gia đình. Họ vui khi thấy món ăn mà họ tự tay làm, mang lại ngon miệng cho người thân của họ. Tôi cũng vậy. Nhất là phải nấu ăn cho người bệnh nan y. Tưởng tượng đến trong miệng kia là bao nhiêu viên thuốc đã ngậm đã tan vào mỗi ngày. Tưởng tượng đến cái lưỡi  đã mất đi phần nào cái vị  giác.  Tưởng tượng lưỡi đắng miệng khô, nước miếng ít. Mỗi lần nhai, thì rất chậm, rất mệt, không còn hăm hở như xưa. Mỗi lần cái khay đồ ăn để trước mặt là Y. chỉ nhìn vào không còn bị món ăn kia quyến rũ nữa,  để tôi phải dục hay chỉ còn cách là dùng áp lực, bắt há miệng và đút cả muỗng cơm hay đồ ăn vào. Bởi vậy,  khi thấy Y. chịu ăn, hay nói thích một thức ăn nào đó thì tôi rất vui. Có điều cái món ăn kia thì  mãi ở tận CA, Texas hay Phila !

Nhìn Y. ăn tôi thấy chẳng an tâm chút nào. Mỗi lần gắp đồ ăn là mỗi lần đồ ăn vương vải đầy trên chiếc yếm, uống nước cũng vậy. Thằng con tôi nói nên để mẹ tự gắp đồ ăn để tay mẹ quen.Cái miếng  thịt trên dĩa, mà đôi đũa cứ trật lên trật xuống, như đứa bé mới tập cầm, lâu lắm mới gắp được,  thấy đến tội. Gắp đã khó mà bỏ thức ăn vào miệng càng khó hơn. Tôi phải thay yếm hay nhặt đồ ăn vương vải nhiều lần. Thấy Y. gắp tôi nóng ruột, muốn dành phần đút nhưng Y. không chịu. Hàm răng nghiến, đầu lắc lia lịa. Có lẽ đây là một phản ứng tự nhiên như thể chứng tò Y. vẫn còn đủ khả năng để tự lo lấy mình. Cuối cùng tôi phải chịu thua. Tôi đã chịu thua rồi. Tôi ngồi yên, thỉnh thoảng liếc nhìn Y. ăn. Chậm, rất chậm. Tuồng như không ham thích gì ở mấy hạt cơm, lát thịt, miếng cá, cọng rau ấy nữa....
Đôi khi thằng con tôi ở xa về thăm mẹ. Có nó, Y. rất vui. Nó có khả năng bắt mẹ nó ăn đồ Mỹ. Sự thật nó ra lệnh chứ không phải dỗ dành như tôi.
Thằng con hỏi mẹ đủ thứ, bắt mẹ phải trả lời.  Hy vọng đây là thuốc chửa cho người có triệu chứng  lẩn bắt đầu xâm chiếm.
                                            oOo

 Lần nào khi từ giã Y. ra về, chân bước không muốn nổi. Nỗi ê chề như hai hòn đá cột vào hai bàn chân. Rất ít khi trở về với niềm vui với đôi chân hăm hở. Cái nghẹn chận lại ở cổ, một khối nặng chình chịch như đè trên vai  khi phải nghe những lời nói hay những lời dặn dò thật tội tình:  ngày mai ông nhớ tới sớm chở tôi đi chợ Tết hay nhớ mang áo dài để tôi đi đám cưới...  hay ông Mỹ mập trước nhà mình có biết chơi bài tứ sắc không ...Có khi chịu không nổi nỗi đau xót, tôi đã cúi đầu xuống để dấu dòng nước mắt chực tuôn trào.

 Mỗi lần ra về tôi đều bước qua những căn phòng rất quen thuộc ở hai bên hành lang: Trong căn phòng này một bà già đang hét. Trong căn phòng dành cho những người cần sự giúp đỡ của nurse aid trong lúc ăn uống, thì một ông lão nhắm mắt, nằm trên xe lăn, hai ông lão đang gục đầu xuống bàn... Qua phòng nọ, một bà Mỹ trắng đang nhìn lên trần nói huyên thuyên bất tận... Trước mặt là một lão Mỹ trắng bị cụt một chân, được phủ bởi tấm drap trắng, bên cạnh là vợ của ông ta - ở ngoài vào chăm sóc. Ở phòng đầu dãy là một đôi vợ chồng già cùng ở trong nursing home. Cảnh bà vợ phải nhìn chồng bà năm ngoẻo cổ thều thào mà bất lực. Bà ta cứ đứng nhìn như vậy mấy tháng rồi

 Mặc dù, ở đây ánh sáng bên ngoài vẫn lọt vào, nắng mùa xuân vẫn vàng tươi, những bông hoa dại vẫn thấy ngoài kia khung cửa kính, và ở trong này, ngày ngày quang cảnh vẫn tấp nập như một phiên chợ, nhưng nó là cái chợ chỉ dành cho những linh hồn đang ở bên bờ vực tử sinh. Những người y tá bận rộn phát thuốc cho từng bệnh nhân. Những nurse aid lo đẩy xe mang khay thức ăn hay ngồi bên cạnh những cụ ông cụ bà để giúp họ ăn uống. Những chiếc xe lăn trên hành lang. Chỗ này một bà lão tự nhiên đứng dậy rời
 khỏi xe lăn khiến những y tá hoảng hồn chạy đến bắt ngồi lại... Hay một  bà lão ngày nào cũng đi từ hành lang này đến hành lang khác, miệng lẩm bẩm, nách kèm những chiếc khăn, những tấm drap... Thêm một bà Mỹ trắng bị bệnh lẩn, được người con dẫn đi như một con cừu rất mực  ngoan ngoãn hay ngồi yên bên cạnh chiếc đàn dương cầm, nghe con đàn từ bản này sang bản khác trong nhà ăn. Một bà lão khác mà tôi gặp khoảng bốn năm về trước, lúc ấy đi đứng còn vững chải, nay thì đã nằm bất lực như Y.  trên chiếc xe lăn đặc biệt, há hốc miệng nhìn tôi.

Chỉ có một lão Mỹ đen, suốt ngày thấy lão  ngồi trên xe lăn đầu gục xuống, mắt nhắm.Chỉ vào giờ ăn là lão tự lăn xe ra phòng ăn. Và cứ mỗi lần thấy tôi là mắt lão sáng, cười tươi như hân hoan thấy lại một người thân dấu. Bởi vì lão biết tôi là cựu quân nhân, có thời hành quân chung với Sư đoàn 1 Kỵ binh Không vận hoa kỳ ở An Khê - sư đoàn của lão. Lão chào tay tôi. Tôi đứng nghiêm chào tay lão, Chúng tôi cùng chào nhau.
Chưa bao giờ tôi thấy nụ cười của lão đẹp như lần ấy. Hàm răng trắng, đôi mắt sáng rực, và vẽ hớn hở lẫn tự hào tự nhiên bừng nở như thể một phép lạ, ít khi thấy từ một ông lão cô độc nhất, trầm ngâm nhất luôn luôn  chọn một chỗ khuất ẩn nhất trong phòng ăn để ngồi.

Vâng  chính tôi, chứ không phải bác sĩ, hay bất cứ một ai, đã đánh thức lão Mỹ đen này dậy. Khi tôi nghiêm chỉnh đứng ở vị trí nghiêm, chào tay lão, lão cũng chào lại, chào rất mạnh, như một dõng tướng.
Không ai có thể biết được sức mạnh theo máu nóng luân lưu trong người tôi, người lão. Họ chỉ thấy cái võ lốt của tôi là một lão già mà thiên hạ khi thấy hình trên Facebook nói là THT sao mà quá thảm. Không ai nhận ra trong trái tim héo úa của lão Mỹ đen có một bếp lửa từ lâu nguội lạnh nay được châm mồi.  Không ai biết chúng tôi đã có một thời hành  quân chung, có nghĩa là cùng gian khổ chung. Tôi hãnh diện kể là tôi đã nhận được  huy chương bạc "Silver Star"  do sư đoàn lão tưởng thưởng khi  chúng tôi cứu được những người lính Mỹ trong một trận phục kích đoàn convoi  ở  trên đèo An Khê...

(Tôi đã  viết vài truyện lấy chất liệu về cuộc phục kích này. Tiêu biểu là "Người hạ sĩ nhất" (đăng trên Khởi hành),  "một loài chim thiên di" và  " Những cánh chim tuyệt vời" (đăng trên Văn). Riêng về  cái huy chương Mỹ Silver Star tôi chỉ biết mình được thưởng sau khi tôi ở Mỹ do lời tiết lộ của một thẩm quyền ).

Phải. Chính cái chào tay, cái đầu ngẩng lên, đôi chân đứng nghiêm, ngực ưởn, tất cả trở thành một sức mạnh vô hình  làm hồi sinh lại hai trái tim ngỡ chừng  úa héo của chúng tôi.

***

Căn phòng Y. chỉ trong vòng 6 tháng có hai bà lão chung phòng qua đời. Bệnh họ thật lạ. Họ ngủ li bì, không ăn không uống. Thân nhân kêu cũng không dậy. Trợ tá kêu dậy ăn, một bà thì nói: Tao ăn rồi. Trợ tá (nurse aid) hỏi: Bà ăn khi nào? Tao ăn hôm qua... Còn bà kia thì cứ nhắm mắt, thỉnh thoàng nói chuyện  với người chết. Cuối cùng cả hai lần lượt ra đi. Không đau đớn, không cần trối trăn, cũng chẳng có thân nhân bên cạnh khóc lóc.. Họ nhắm mắt ra đi  thật bình an thanh thản.

***
Người ta trách tại sao lại để người thân vào nursing home.. Tôi nghĩ là lời trách đúng. Vào đây là một cách gián tiếp giam người thân trong bốn bức tường của nhà mồ, khiến họ chết sớm vì buồn, vì bị hắt hủi, bị bỏ rơi.

Vậy mà tại sao tôi lại để Y. vào đây.

Bởi vì hai tay tôi không thể ôm vững để mà giữ Y khỏi té, hai chân tôi cũng không thể đứng vững khi Y. cần tôi đở xuống hoặc lên giường. Tôi rất cần Y. mà nghiệp nợ không cho tôi được dịp chu toàn trách nhiệm. Phải chi tôi có con có cháu kề cận. Phải chi tôi ở CA hay Houston, hay những nơi có cộng đồng Việt nhiều. Phải chi Y. đừng bị thêm lần stroke thứ ba. Phải chi đừng cho tôi suy nghĩ đến một ngày tôi bị mệnh hệ gì - nào ai biết, để không còn ai lo giấy tờ thủ tục, mở cửa khi gọi emergency, chăm sóc Y. đêm hôm, lau mình lau mẩy cho Y. cho Y. uống thuốc mỗi ngày, mở TV Y. xem, mở nhạc Y. nghe. giúp Y. đánh răng xúc miệng... Chính cái ám ảnh về nỗi bất an ấy mà tôi quyết định... Tuổi tôi đâu còn trẻ nữa để mà nhìn tương lai mà hoạch định cuộc sống cho mình... Hết Phùng Nguyễn, đến Đinh Cường... còn ai nữa.. Bao giờ đến phiên tôi ?..

Trời ơi, tôi muốn giữ gìn Y. mà nghiệp nợ không cho.
Không ! Không phải nghiệp nợ đâu. Chính là tuổi cuối đời: cái tuổi mà xã hội gạt ra bên lề !

Cái tuổi chứng minh  tại sao có tiếng  tiếng khóc khi chào đời !.

Cái tuổi mà  đầu luôn luôn cúi gục  xuống  như hầu hết những người có mặt trong nhà dưỡng lão này !

Khi nắm lấy bàn tay phế liệt của người bạn đời tôi nói thầm: Đời buồn lắm. Ngủ cho ngon hở những ngón tay búp măng. Mấy năm rồi 5 ngón tay không hề động đậy, không có việc làm nên nhàn nhả  mập mạp  tròn lẳng, trông đẹp làm sao !
.
Bây giờ tôi như thằng sống mà lê cái thân bằng đôi bàn chân bị chứng  Gout kinh niên hành hạ  và  mang cái đầu như trái bom muốn nổ.  Có lúc Gout làm sưng cả bàn chân. Có lúc mấy ngón chân sưng vù. Hết bàn trái rồi đến phải. Tôi không thể mang giày. Chỉ mang tất và dép. Tôi vừa lết vừa chửi thề: Đ. M sao đời ta lại thảm  quá chừng như thế này.
Có khi tức quá, về nhà tôi ném quăng cả cái bị đựng đồ ăn. Thịt cá vương vải trên nền. Rau cải văng ra tứ tung.

*** 

May mà tôi còn có một chỗ để nương tựa và bấu víu. Đó là một chỗ ngồi dưới căn hầm basement này. Nó dành riêng cho tôi làm văn chương, làm TQBT. Thế nào tôi cũng phải bước xuống, dù phải vịn phải bước lần hồi:

Hầm quen, từ buổi chào đời
Quen như hơi thở  làm người Việt Nam
Quen như ngày tháng chiến chinh
Lấy bao cát để giữ gìn thanh xuân

Bây giờ  trong cõi lưu vong
Hầm bao cát nay  thành hầm basement
Để mỗi ngày xuống bực thang
Mở lại đèn, thắp lại hầm sáng trưng
Và trong im lặng vô cùng
Xin cám ơn những căn hầm của ta

Nơi này  tôi  trở thành một con người khác. Không còn lê đôi chân. Không còn bị những vết cứa mỗi ngày phải nhận từ một cõi mồ dưỡng lão.  Không còn suy nghĩ về ‎ nghĩa của kiếp người trong nỗi bi quan yếm thế. Không còn lo không còn sợ không còn buồn không còn giận. Tôi chỉ biết tựa nương vào chữ nghĩa, và việc làm. Tôi bị đắm chìm và cuốn hút trong một cõi khác không phải là hiện hữu. Tôi không còn là kẻ  để bạn bè tôi tội nghiệp dùm vì cái hình "quá thảm"  khi Trần Trung Đạo chụp và bỏ lên Facebook.

 
Chưa thảm đâu, các bạn ạ. Còn nhiều cái thảm sầu gấp trăm lần. Như cảnh một cựu sĩ quan thám kích QLVNCH, một nhà văn  phải gánh đôi thùng phân người để tưới luống khoai luống sắn mỗi ngày trong trại khổ sai..

                                            
Vâng, chính nhờ một chỗ dưới căn hầm basement  này, tôi mới  ngộ là tôi có con đường trước mặt để đi, để bước và để tới.
Bạn thấy đó, số báo này là bằng chứng.

***

Tôi đã kể ra những ngày tháng mà tôi đã, đang và sẽ trải qua tại một nhà mà người ta gọi là Dưỡng lão.
Tôi đã xữ dụng bút pháp để kể những điều gì đáng kể, đáng nói, đáng mang ra chia sẻ với những độc giả của tôi.

Đó có phải là văn chương không?

Vâng, đúng vậy. Bởi vì, rốt cùng,  văn chương phải  bắt đầu từ đấy. Nó nẩy mầm từ cuộc sống. Nó không phải là những thước phim câm.Nhưng nó bắt nguồn từ sự suy nghĩ. Như thời lửa đạn chập chùng, nó nẩy mầm từ niềm vui quá chừng to lớn khi thấy từ miệng hầm cảnh một người đàn bà bồng đứa bé còn bú sửa, ló đầu lên. Với tư cách một trung đội trưởng, tôi đã tránh được một tội ác bằng cách ra lệnh quăng trái khói thay vì lựu đạn nổ. Nhưng với tư cách một nhà văn,nó không phải giới hạn ở  hành động vì lương tâm, mà đi xa hơn: Nó nói lên lòng nhân bản của người lính miền Nam chúng tôi.

Bây giờ cũng vậy. Nó cũng được dùng để nói lên cái tình cái nghĩa qua  cảnh một người chồng già chăm nom người vợ khổ nạn. Nó ươm từ cảnh đứa con mang niềm vui đến mẹ nó. Nó toát ra cái khí hậu thay vì u ám buồn bả của căn phòng trong viện dưỡng lão là sự ấm áp của một gia đình vợ chồng con cái sum họp để vui vầy trong lúc đen tối nhất... Để rồi nó sẽ biến thành chữ nghĩa, tràn chảy trên giấy hay trên màn ảnh computer. Để người đọc chia sẻ với tác giả những gì mà tác giả cố diễn dạt. Để tác giả được dịp trút nỗi lòng. Để nhịp cầu vô hình bắt qua những tâm hồn đồng điệu, đồng cảm, và có thể đồng cảnh...

Biết đâu, nó giúp được phần nào cho những ai có thể nhận  rõ hơn  về nỗi may mắn của họ trong tuổi già. Là họ được hạnh phúc lắm. Hạnh phúc được con cháu mừng thượng thọ, mừng lục tuần. mừng thất thập, mừng chiếc xe của họ không bị nghẹt xăng, bám bụi. Nó rút từ nỗi đau khổ, niềm hânh phúc, những xót xa để dâng tặng cho đời. Cho dù có người ngậm ngùi: Sách vở ích gì cho buổi ấy !!!

Vâng, tôi biết chẳng ích lợi gì. Bản thân tôi khi in một tác phẩm, dù lá tác phẩm của Nguyễn Bắc Sơn hay Vũ Hữu Định, dù của Nguyễn thị Thanh Sâm hay Phùng Thăng, tôi rao là dành để tặng khi có yêu cầu... Nhưng mấy ai yêu cầu? Mấy ai hiểu là tôi cần cái danh dự không phải in để năn nỉ  đọc dùm...

Vậy mà tại sao tôi lại viết. Vậy mà tại sao tôi lại đánh máy. Vậy mà tại sao tôi lại nghiền ngẩm từng trang này qua trang khác để thực hiện chủ đề về một tạp chí văn học miền Nam ?... Tôi không biết. Chỉ biết là ngoài văn chương ra không ai có thể cứu tôi lúc này, Không ai có thể giúp tôi lấy lại sự bình an để tôi khỏi còn bị những cơn mơ dữ. Không ai có thể vất đi nỗi nghẹn ngào khi tôi nhìn bức tranh mà Y. thích và mua cho kỳ được với giá rất cao. Không ai có thể đuổi đi đôi mắt vô hồn nhìn tôi như nhìn một kẻ lạ... Ở nhà cũng vậy. Ra đường cũng vậy. Vào nursing home cũng vậy...


Tôi biết, không ai có thể giúp tôi khỏi bị chết sớm vì mãi buồn rầu,mãi lo nghĩ chỉ trừ văn chương, và một chổ ngồi dưới basement này...

( Bài viết " Văn chương cuối cùng bắt đầu từ đây"của anh Trần Hoài Thư được trích trong Thư Quán Bản Thảo, số 69, tháng 4-2016.
TQBT số 69 , chủ đề giới thiệu bán Nguyệt san Mai ( 1960-19666 ).
Chân thành cám ơn tác giả đã chia xẻ ..Xin anh hãy tiếp tục con đường trước mặt, để đi, để bước, để tới..Dù rằng.. chữ nghĩa " rút từ nỗi khổ đau, niềm hạnh phúc, những xót xa để dâng tặng cho đời "..Nhưng văn chương đã bắt đầu từ đó. Nó được nẩy mầm từ cuộc sống.." ( trích )