Người Gối Đầu Cỏ Hoa
Trong kho tàng Văn Học Nghệ Thuật của nhân loại, đề tài tình yêu bao giờ cũng chiếm một vị thế đáng kể. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến lãnh vực thi ca. Không biết tình yêu đã hiện hữu trên quả địa cầu này từ bao nhiêu tỷ năm ? Có cùng thời điểm với sự hiện hữu đầu tiên của đôi tình nhân thời tiền sử ?
Hay từ khi có tiếng chim hót trong rừng và khi loài hoa nguyên khai trên những bờ đá mộng mơ ? Bản sắc thi ca tình yêu Việt Nam không biết có phải xuất hiện từ những câu ca dao thần tiên trong tâm hồn dân tộc từ hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước ? Ở Trung Hoa, phát hiện thơ tình nhiều nhất trong đời Ðường, được ca ngợi như thời đại hoàng kim của nền thi ca Trung quốc, đã có hơn một ngàn hai trăm năm. Cho đến bây giờ ảnh hưởng của những bài thơ tình trong cõi Ðường thi đó vẫn còn truyền đạt những ấn tượng tuyệt vời sâu sắc. Ở cuối thế kỷ 19, những trào lưu thi ca lãng mạn diễm tình của Pháp cũng chiếm một ưu thế đáng kể trong giới sinh hoạt văn học Tây Phương và lan rộng đến khắp thế giới, dĩ nhiên trong đó các nhà thơ ViệtNam tiền chiến chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Những khuynh hướng sáng tạo chuyên chở đề tài tình yêu , đa số đều hy vọng vượt qua không gian và thời gian. Dĩ nhiên điều kiện tác phẩm thực sự phải tồn tại trong niềm yêu thích của quần chúng. Chính mỗi tác phẩm định đoạt số phận của nó. Một học giả Tây Phương đã nhận định: ‘một tác giả cũng như một tácphẩm có số phận của nó’Trong văn học sử Việt Nam đã ghi nhận có đến hàng ngàn nhà thơ, nhưng mấy ai đã vượt qua thử thách của thời gian và lịch sử.
Tình yêu, mỗi ngày mỗi hiện hữu chung quanh đời sống chúng ta, cần thiết như hơi thở, như nhịp đập của trái tim loài người. Vì lý do đó, đề tài đề cập đến tình yêu bao giờ cũng được ưu ái nhắc nhở đến trong mọi thế hệ. Những tên tuổi lừng lẫy trên thi đàn văn học nước nhà cho đến nay gần nửa thế kỷ, vẫn còn được nhắc nhở đến như Ðinh Hùng Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Hồ Dzếnh, Thâm Tâm, TTKH, Lưu Trọng Lư...Trong thời gian trước 75, ở quê nhà như Nguyên Sa, Du Tử Lê, Nhất Tuấn, Luân Hoán, Hà Huyền Chi, Viên Linh, Nguyễn Tất Nhiên, Tô Thùy Yên, Cao Mỵ Nhân, Vũ Hữu Ðịnh...và bây giờ ở hải ngoại, đa số các nhà thơ tỵ nạn đều quy về bản sắc thơ tình. Tình yêu không phải chỉ đơn thuần giữa đôi trai gái, mà tình yêu tỏa rộng đến quê hương, đến tha nhân với tâm lượng từ ái, bao dung biển trời. Tình yêu nối kết từ tiểu ngã, đến đại ngã để tan thành mây thành nước, thành vũ trụ ngân hà lấp lánh yêu thương. Trong những nhà thơ chung thủy với thơ tình khi còn rong chơi trên quê hương nồng thắm, cũng như bây giờ tự tại với kiếp sống nhân sinh nơi hải ngoại, trước sau như một, đó là Du Tử Lê, Luân Hoán. Một nhà thơ đang định cư tại California, Hoa Kỳ và một nhà thơ đang cư ngụ tại Montréal, Canada. Ðề cập đến Luân Hoán là nhắc đến một thời họp mặt của những người làm thơ Quảng Ðà gồm những Hà Nguyên Thạch, Ðynh Hoàng Sa, Vương Thanh, Vũ Hữu Ðịnh, Khắc Minh, Lê Ðình Phạm Phú, Thành Tôn, Hoàng Quy,Hoàng Lộc, Huy Giang, Hà Nguyên Dũng, Trần Dzạ Lữ, Ðinh Trầm Ca, Phương Tấn, Nguyễn Nho Nhượn,Nguyễn Kim Phượng, Lê Vĩnh Thọ, Triều Hoa Ðại, Chu Tân, Hà Quốc Huy, Nguyễn Nho Sa Mạc, Hạ Ðình Thao...đã từng xuất hiện trên Bách Khoa, Văn Học, Văn, Nghệ Thuật...xuất bản tại Sàigòn. Riêng với Luân Hoán trước năm 1975, ông đã trình diện với đời, với bằng hữu có hơn hàng chục thi phẩm như Về Trời(văn Học 1964), Trôi Sông(VH1966) Chết Trong Lòng Người (Ngưỡng Cửa 1967)Viên Ðạn Cho Người Yêu Dấu (Thơ,1969), Hoà Bình Ơi, Hãy Ðến (thơ 1970, cùng Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế Mỹ), Nén Hương Cho Bàn Chân Trái (thơ. 1970, với nhiều người viết), Thơ Tình (thơ 1970), Ca Dao Tình Yêu (thơ 1970, cùng Khắc Minh), Lục Bát Ca (thơ 1970, cùng Lê Vĩnh Thọ, Vĩnh Ðiện) Rượu Hồng Ðã Rót (thơ, 1974), ... Khi đến định cư tại Montréal Canada, Luân Hoán vẫn tiếp tục làm thơ và xuất bản các thi phẩm mới nhất của ông ở hải ngoại như Hơi Thở Việt Nam (Sông Thu 1986), Ngơ Ngác Cõi Người (Nhân Văn ) Ðưa Nhau Về Ðến Ðâu (Sông Thu 1989), Cảm Ơn Ðất Ðá Trổ Thơ...(Kinh Ðô 1991), Mời Em Lên Ngựa (Sông Thu 1994),Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh (thơ 1995), Cỏ Hoa Gối Ðầu (Sóng Văn 1997). Chúng tôi đã có diễm phúc đọc hết mười bảy thi phẩm của Luân Hoán, đã cùng chia xẻ buồn vui với thi sĩ hơn bốn mươi năm qua ở quê nhà Quảng Nam - Ðà Nẵng. Luân Hoán sáng tác đều đặn hăng say, phong phú như người ghiền thuốc phiện lâu năm, thơ đã ở trong máu, trong tim, trong nhịp thở hàng ngày của ông. Qua mười bảy thi phẩm của Luân Hoán vừa đan cử cho thấy tâm hồn ông mênh mông, ông viết về mọi đề tài quê hương đất nước, bằng hữu đệ huynh từ ngoài đời đến trong cuộc sống quân ngũ, nhưng có lẽ ông thành công và ưng ý nhất vẫn là cõi thơ đầy ắp tình yêu. Thực sự ông là một người hạnh phúc nhất thế gian, thơ ở chung quanh ông trong đời sống. Buổi sáng súc miệng bằng thơ, buổi trưa ăn uống, rong chơi, đọc sách với thơ và buổi tối ngủ cùng thơ suốt cả một đời.Không biết có phải ẩn ý sâu xa, ông muốn mượn ý nói thơ mà chính là ông muốn nói đến ý trung nhân đã sống thủy chung mặn nồng với ông suốt những chặng đời gian khổ buồn vui, chia xẻ ngọt bùi, thăng trầm với định mệnh.
...
lãnh thổ thơ tôi, một cõi Em
hàng trăm chánh thất, chỉ một tên
và không cung nữ, không hoàng hậu
lộng lẫy trong cùng một dáng Em
(Mời Em Lên Ngựa)
lãnh thổ thơ tôi, một cõi Em
hàng trăm chánh thất, chỉ một tên
và không cung nữ, không hoàng hậu
lộng lẫy trong cùng một dáng Em
(Mời Em Lên Ngựa)
Ngoảnh lại, một đời bát ngát thơ
Ðời ta lộng lẫy quá không ngờ
Cảm ơn thiên địa cho ta thở
Cảm tạ giai nhân dạy ước mơ...
(Mời Em Lên Ngựa)
Cảm ơn thiên địa cho ta thở
Cảm tạ giai nhân dạy ước mơ...
(Mời Em Lên Ngựa)
Qua đến Cỏ Hoa Gối Ðầu, người chủ trương tạp san Sóng Văn đã nhiệt tình tiếp tay thực hiện cũng bày tỏ chân tình:
" Cỏ Hoa Gối Ðầu hầu hết là những bài thơ tình với bóng dáng của tình thường. Ðó là những mê đời. Ðó là ở trong đời. Là chứng nghiệm thực tại. Thực tại chính là tim rung và máu chuyển, là nhựa trong cây, là tình trên lá, nhà thơ cần gì phải chống gậy thiền tăng tìm lật nghiêng sông núi ?"
" Cỏ Hoa Gối Ðầu hầu hết là những bài thơ tình với bóng dáng của tình thường. Ðó là những mê đời. Ðó là ở trong đời. Là chứng nghiệm thực tại. Thực tại chính là tim rung và máu chuyển, là nhựa trong cây, là tình trên lá, nhà thơ cần gì phải chống gậy thiền tăng tìm lật nghiêng sông núi ?"
Thơ của thời điểm ông đang ngồi ngất ngưởng ở cửa tri thiên mệnh, nên thơ đã nhuốm vẻ thong dong mây trời, coi thường lẽ tử sinh của tạo hóa.
vẽ tâm vẽ dạng vẽ đời
từ sinh đến diệt treo chơi mấy ngày ?
(Chân Tướng)
từ sinh đến diệt treo chơi mấy ngày ?
(Chân Tướng)
Thiên đàng một cõi riêng em
thành tâm đắc đạo ưu tiên tôi thờ
động vàng tiềm ẩn mạch thơ
ngấm vào thân thể tôi chờ khai hoa
thành tâm đắc đạo ưu tiên tôi thờ
động vàng tiềm ẩn mạch thơ
ngấm vào thân thể tôi chờ khai hoa
em còn cõi niết bàn riêng
mình tôi tốt phước được quyền nhở nhơ
ra vào kính cẩn làm thơ
sống vương giả bởi biết thờ phụng em
(Nghiệp Phúc)
mình tôi tốt phước được quyền nhở nhơ
ra vào kính cẩn làm thơ
sống vương giả bởi biết thờ phụng em
(Nghiệp Phúc)
Ông đã vượt ra ngoài cái tâm thức Bát Nhã,tiếng vọng lại bên kia trời Tử Sinh chỉ là cõi tâm động của tình yêu. Một thi sĩ Tây Phương nào đó đã tận tình thi hoá mối tình thơ mộng của ông với người yêu Paris tóc vàng mắt biếc...Anh sẽ khắc lên bia đá " Nơi nào em đến, nơi ấy là thiên đường"
Cổ sáp ong vẫn thường đeo thánh giá
tôi nhủ thầm : em ngoan đạo, từ tâm
muốn vói tới ngôi trời, tôi xem lễ
Chúa của tôi là em ở trong lòng....
(Chúa tôi)
tôi nhủ thầm : em ngoan đạo, từ tâm
muốn vói tới ngôi trời, tôi xem lễ
Chúa của tôi là em ở trong lòng....
(Chúa tôi)
Thiên Ðàng hay Niết Bàn cũng chỉ là nơi người tình thủy chung. Ông quả là một tín đồ ngoan đạo tình yêu, mà tình yêu trân qúy cao đẹp nhất chỉ có một người thôi đi bên cạnh ông đến suốt đời.
Trong Cỏ Hoa Gối Ðầu, ông xem như tặng phẩm ngọt ngào dành tặng cho người yêu, một vài ý tưởng thầm kín thơ mộng và bộc trực chân tình, ông quả can đảm và tế nhị hơn những nhà thơ nổi tiếng cùng thời với ông. Ông rất thực thà hồn nhiên với chính mình ông, nên lời thơ giản dị hài hòa, chất phác, gây cho đối tượng cảm kích một cách thoải mái vì giá trị tự ái được nâng cao như một hoàng hậu không ngai. Ðôi khi ông không quan tâm chải chuốt ngôn từ . Yêu là nói yêu cái đã. Tỏ tình thẳng thắn, nhanh như ánh sáng, và con đường tình sử chỉ có từ đường thẳng duy nhất và gần nhất trong không gian một chiều. Tuy nhiên, trong thế giới thơ ông, phán xét, thẩm định toàn Tình Yêu suông sẻ thì hơi quá hồ đồ, nông cạn, chẳng khác chúng ta nhìn bao quát đầy màu sắc rực rỡ của ngàn hoa, mà không hiểu những tư duy của đá, những thăng trầm của cổ thụ, những vô thường hư huyễn của khói sương suối nguồn ? Thỉnh thoảng trong thơ ông cũng phảng phất hương vị cay đắng, ẩn ức những tiếng thở dài ngao ngán thế sự trầm luân, của tâm trạng u sầu lưu đày biệt xứ , ngơ ngác trong những thành phố lạ tha phương.
Giữa cõi sống mà mỗi ngày, chúng ta thường trực đối diện với thực tế phũ phàng, chạy đuổi theo miếng cơm manh áo, thử hỏi đâu còn chút để lắng nghe chính tâm thức mình vọng động những yêu thương khắc khoải ? Giữ được tâm hồn thanh tịnh, an nhiên tự tại với thơ, cho thơ, tất cả trọn vẹn vì thơ như Luân Hoán, không phải nhà thơ nào cũng thực hiện được. Quả thật ông đã ngộ. Thơ được tôn sùng như một đạo giáo của Tình Yêu. Là một cõi Thiên Ðàng hay Niết Bàn nơi trần thế tuyệt vời. Cảm ơn thi sĩ Luân Hoán đã tạo cho chúng ta cảm giác không biên giới giữa thực và mộng trong cảnh sống chói chang xô bồ, lạnh giá, cô đơn nơi xứ người
Thái Tú Hạp
(trích Giữa Trời Hoa Bay/ Sông Thu 2000
(trích Giữa Trời Hoa Bay/ Sông Thu 2000
Những thi phẩm đã xuất bản:
Thập niên 60:
Về Trời ( Văn học Sài Gòn )
Trôi sông ( Văn học Sài Gòn )
Chết trong lòng người ( Ngưỡng cửa )
Viên đạn cho người yêu dấu ( thơ)
Thập niên 70:
Rượu hồng đã rót ( thơ)
Nén hương cho bàn chân trái ( Cùng với nhiều bạn văn )
Thơ tình ( Cùng với Khắc Minh )
Lục bát ca ( Cùng với Lê Vĩnh Thọ, Vĩnh Diện phổ nhạc )
Ca dao tình yêu ( Cùng với Khắc Minh )
Hòa bình ơi, hãy đến ( Cùng với Lê Vĩnh Thọ. Phạm Thế Mỹ )
Thập niên 80:
Hơi thở Việt Nam ( Sông Thu Hoa Kỳ )
Đưa nhau về đến đâu ( Sông Thu Hoa Kỳ )
Ngơ ngác cõi người ( Nhân Văn Hoa Kỳ )
Thập niên 90 :
Cám ơn đất đá trổ thơ.
Lòng ta hạt bụi vu vơ bám hoài ( Kinh Đô Hoa Kỳ )
Mời em lên ngựa ( Sông Thu Hoa Kỳ )
Nuôi thơm chùm kỷ niệm xanh ( Thơ/ Canada )
Cỏ hoa gối đầu ( Sóng Văn Hoa Kỳ )
2001:
Trôi sông ( in lại / Canada )
Rượu hồng đã rót ( in lại / Canada)
2003:
Sông núi cùng người thơm ngát thơ ( Canada )
2005:
Tác giả Việt Nam ( dưới bút hiệu Lê Bảo Hoàng )
2006:
Dựa hơi bạn bè 1 ( Hồi ký rời )
Quá khứ trước mặt ( Hồi ký rời )
Tác giả Việt Nam ( Sưu tập )
2007:
Dựa hơi bạn bè 2 ( Hồi ký rời )
Ổ tình tận lưng ( Tập hợp thơ HL )
2008:
Em từ lục bát bước ra
2013
Thơ thơm từ gốc rễ tình.
Góc, với nhà thơ LH :
Làm thơ từ năm 11 tuổi, và nhìn lại từ thập niên 60 đến nay, anh đã hơn 60 năm làm thơ..Rất nhiều bạn bè thân hữu viết về thơ của anh, vì đơn giản, thơ của anh đã đồng hành cùng họ từ thời tuổi trẻ, trong chiến tranh, và những ngày trôi nổi xứ người.. "Luân Hoán sáng tác đều đặn hăng say, phong phú như người ghiền thuốc phiện lâu năm, thơ đã ở trong máu, trong tim, trong nhịp thở hàng ngày của ông. Qua mười bảy thi phẩm của Luân Hoán vừa đan cử cho thấy tâm hồn ông mênh mông, ông viết về mọi đề tài quê hương đất nước, bằng hữu đệ huynh từ ngoài đời đến trong cuộc sống quân ngũ, nhưng có lẽ ông thành công và ưng ý nhất vẫn là cõi thơ đầy ắp tình yêu. Thực sự ông là một người hạnh phúc nhất thế gian, thơ ở chung quanh ông trong đời sống"
Luân Hoán. Anh là một người hạnh phúc nhất thế gian , vì thơ ở chung quanh anh trong đời sống.( Nhận xét của anh TTH )
Không phải ai cũng có thể, được thở cùng thơ như anh, phải không ?
Và dù anh già đi bao nhiêu, cõi tình trong thơ anh lúc nào cũng mượt mà, cũng ngây ngất tình.
Em yêu không phải là hoa
Vì hoa đâu có nở ra vì người
Em yêu đâu chỉ là người
Vì tim em có nụ cười Phật tiên
(Nuôi thơm chùm kỷ niệm xanh)
Và với quê hương, dù xa vời vợi, với anh..
Vẫn gặp bình minh qua ngọn tóc
Mỗi lần tay chải ngọn bâng khuâng
Gió từ bờ ruộng qua ngọn chuối
Mang tiếng chìa vôi, thoảng hương bần
( Sông Hàn )
Cám ơn anh, cõi tình thơ Luân Hoán.