Friday, September 13, 2019


                        La Maritza
                        Lời Việt : Nguyễn Xuân Hùng
                        Singer : Sylvie Vartan


Những con đường hoa nắng.

Nói về ngày xưa, ai cũng có rất nhiều ngăn kỷ niệm trong ký ức. Thỉnh thoảng kéo một ngăn ra, nhìn ngó, gậm nhấm những ngày tháng cũ ươm nắng vàng son tươi đẹp, để vui, hoặc để buồn nhớ thoáng qua. Ngăn ký ức của tôi thường tràn đầy những bài hát, quá nhiều, quá mệt để nhớ nó, có lẽ tất cả những bài hát tôi đã nghe qua, đã hát đều nhớ nằm lòng trong đầu. Đa số những bài hát tôi yêu thích đều gắn liền với kỷ niệm không nhiều thì ít.
Chắc các bạn và nhiều người khác cũng vậy, khi có những cuộc tình không có một kết cục hạnh phúc; thì tâm hồn họ hay gắn theo một bài hát nào đó. Cuộc tình càng buồn thì bài hát trong ngăn ký ức của họ càng bi thảm. Có thể lúc chúng ta càng lớn thì những bài hát đó cũng phai nhạt đi, khi chúng ta có một đời sống hạnh phúc thì quá khứ buồn bã đó cũng tan theo.
Cũng có khi, không nhất thiết là phải có tình hoặc không, như hồi đầu tiên được nghe nhạc, khi ba tôi mua giàn máy quay đĩa về, tôi mê mệt với bản Ngày đó chúng mình do Duy Trác hát. Hồi đó nhỏ xíu, biết gì đâu mà yêu ai.
Nhưng bài hát thường gợi lại trong tôi những hạnh phúc lại chẳng vương vấn một mối tình nào, nó chỉ mang theo hình ảnh tươi đẹp của năm tôi mới 12 tuổi, tuổi của đá dế, chọi cỏ gà, đánh đáo, đánh khăng, và đôi khi đánh lộn với bạn bè vì những lý do bây giờ nghĩ lại thấy mình thật ngu ngốc, và đôi khi cậu bé 12 tuổi này cũng có những cảm xúc mơ mộng vu vơ mà chẳng hiểu nó là gì.
Buổi chiều khoảng gần 4 giờ là tôi thót lên xe đạp đi lấy tiền hàng cho mẹ, bây giờ nghĩ lại thấy cũng lạ, hồi đó lấy tiền hàng không phải là ít, thường là mấy trăm đồng, trong khi một gói thuốc lá Cotab chỉ có 4 đồng một bao. Hình như hồi 59, 60 chẳng ai nghĩ đến chuyện đề phòng cướp bóc, hoặc ăn trộm. Khu nhà chứa gạo của mẹ tôi chỉ có một then gài bên trong bằng gỗ rất sơ sài.
Tôi thích chạy xe đạp trên đường chiều nắng đẹp, luôn mát mẻ và lộng gió, những năm xưa Sài Gòn cũng như vùng phụ cận khí hậu không nóng bức như sau này, những lúc nóng nhất cũng không làm mình khó chịu. Hệ thống sông ngòi và kinh rạch chằng chịt như một cái máy điều hoà nhiệt độ cho toàn miền Nam, còn bây giờ khí hậu sao quá nóng, nóng đến hết sức chịu đựng của con người. Tháng 9 năm 2010 tôi về lại Sài Gòn, lúc nào cũng mồ hôi nhễ nhại như đang sống trong một lò bánh mì.
Khi đúng 4 giờ, tôi sẽ nghe thấy bản nhạc chuyển mục của đài phát thanh Sài Gòn, từ radio trong nhà bên đường phát ra. Bản nhạc có âm thanh rất lả lướt mà có lúc tôi dừng xe lại để nghe. Thích đến nỗi ghiền, nhưng tôi chỉ thích nghe nó ở ngoài đường như vậy thôi. Dù rằng tôi có thể ở nhà, đúng giờ bật radio lên là nghe được. Khi lớn lên sau này mới biết đó là bản Sonata số 16 en C major của Mozart.
Cháu ngoại Thiên Kim của tôi. Lúc học đàn Piano cũng rất thích bản nhạc này. Thích một cách đặc biệt như ông ngoại nó đã thích.
Rồi tôi canh khoảng gần 6 giờ chiều, lại lấy xe đạp đi thâu tiền hàng cho mẹ. Lần này cốt để nghe bản nhạc Bóng người đi của nhạc sĩ Văn Phụng, trình tấu bằng đàn Hạ Uy Di, không biết ai đàn, vì là nhạc chuyển mục nên không có lời giới thiệu. Chẳng hiểu sao ngày ấy còn nhỏ nhưng tôi đã yêu thích hình ảnh hào hùng của người chiến sĩ trong bản nhạc, và tình yêu thắm thiết của người con gái luôn mong chờ người yêu, người chồng trở về. Hình như tôi đã yêu đời lính từ ngày đó.
Tất nhiên chạy xe trên đường, nghe lúc được lúc mất, mà nhạc chuyển chương trình thường ngắn, chỉ chừng 1/3 bản nhạc thôi, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại thích như vậy, tuổi trẻ hình như ai cũng có những sở thích thật kỳ khôi.
Tôi ra khỏi nhà đúng giờ đến nỗi mẹ tôi cũng để ý, và mẹ nói với các bá của tôi: cái thằng Việt này nó giờ giấc lắm. Mẹ không biết là tôi phóng ra khỏi nhà chỉ để nghênh ngáo nghe nhạc mà thôi. Lấy tiền hàng cho mẹ là chuyện phụ. Đôi khi cũng đánh nhau với trẻ con trên đường đi, nhưng đó lại là chuyện khác 😀.
Đến năm 62 ở Vũng Tàu, thì tôi lại có một bản nhạc chuyển mục khác để lắng nghe và mơ mộng, chắc lúc này tôi đã "phải lòng" cô bạn nhỏ gần nhà, cô có gương mặt khả ái, cười có duyên, giọng nói hơi đớt rất dễ thương. Nhưng không sao, cô chỉ cần nụ cười là đủ hớp hồn tôi rồi.
Đó là bản nhạc Tiếng Xưa của Dương Thiệu Tước, cứ đúng 8 giờ tối được trổi lên với tiếng đàn Tranh não nuột, hồi ấy tôi cứ ao ước được biết, hoặc nhìn thấy người nhạc sĩ chơi bản nhạc đó. Mà không biết rằng chỉ cần nói với ba tôi là sẽ biết ai ngay, vì ông quen biết rất nhiều người là bạn lính ở đài phát thanh Sài Gòn cũng như đài Quân Đội. Trong đêm, tiếng đàn Tranh và "Tiếng Xưa" luôn tạo cho tôi cảm giác buồn bã của một hạnh phúc đã mất, thật là mơ hồ khó tả.
Đến 10 giờ tối, lại tiếng đàn Hạ Uy Di truyền cảm quen thuộc, với bài Đàn chim Việt của Văn Cao, bài này thì tôi thích đã lâu, từ hồi lớp Nhì thì phải, vì cuối năm lớp Nhất đi thi Tiểu học, trong phần thi nhạc tôi chọn bài này, bài Sơn Nữ Ca, và Nụ cười Sơn cước. Thầy giám khảo lật qua 3 bài hát, nhìn tôi và cười ngạc nhiên. Rồi ông nói, hát bài Đàn Chim Việt đi em.
Chắc ông thấy 3 bài hát này chẳng hợp với tôi chút nào, tôi cũng nghĩ vậy, vì những bạn đồng thi với tôi toàn hát mấy bài của con nít. Tôi sở dĩ thích nghe mấy bài này là do ảnh hưởng các bá của tôi, bá Thu chị của mẹ tôi hay hát Nụ cười Sơn Cước và đánh Banjo rất hay. Còn mẹ tôi thì chỉ thích ngâm nga bản ruột là Dạ Khúc- Đàn ai lên cung oán tang tình, gieo buồn...
Sau bản nhạc Đàn Chim Việt, là giọng nói nhẹ nhàng truyền cảm của cô xướng ngôn viên : bây giờ là 22 giờ, xin quý vị điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để khỏi phiền lòng hàng xóm. Xin cám ơn quý vị.
Ngày ấy cả hai đài phát thanh Sài Gòn và đài Quân Đội đều có những chương trình nhạc chủ đề, nhạc thính phòng, nhạc vui buổi sáng, nhạc chọn lọc, nhạc hoà tấu. Chương trình nhạc lúc 0 giờ. Chương trình nhạc ngoại quốc như Pháp, Mỹ đều rất chọn lọc và không nhiều lắm. Hồi tôi nằm Tổng Y Viện Cộng Hoà cũng nhận thấy là người phụ trách để nhạc cho thương binh nghe rất cẩn thận, nhạc luôn êm dịu, thường là nhạc tiền chiến, hoặc của Phạm Duy, Trần Thiện Thanh.
Còn nhạc Việt trong nước bây giờ, tôi đã nghe qua đôi lần cho biết, ngoại trừ một số nhạc sĩ đếm đầu ngón tay tạm nghe được, đều toàn những chắp nối vay mượn nhạc của Đài Loan và Đại Hàn nhiều quá, lời lẽ kém cỏi ngô nghê, nói lên trình độ nhạc lý và học thức cũng như cảm nhận thấp kém của người viết nhạc.
Người ta không bao giờ tắm được hai lần trong một dòng sông. Và tôi không bao giờ có thể trở về con đường thơ ấu lung linh hoa nắng, gió mát, với những bài hát đầy mơ mộng bình yên ngày đó.
Nguyễn Khôi Việt

Góc của T."  Ai trong chúng ta cũng có những con đường hoa nắng lung linh rực rỡ  như cánh diều chở đầy ước mơ của một thời tuổi nhỏ. 
Những con đường lồng lộng ước mơ. 
Khi lần giở lại những ký ức đẹp đẽ đó, lòng sao khỏi ngậm ngùi.
Mỗi bài hát là mỗi kỷ niệm luôn ẩn dấu trong đó, những mảng tình buồn..
và dù buồn hay vui..dù ngậm ngùi hay nuối tiếc..ký ức ấy mãi  luôn đi bên cạnh  chúng ta cho đến cuối đời..như anh, như em.

Saturday, September 7, 2019



                     Cho đời chút ơn
                     Nhạc : Trịnh Công Sơn
                     Photos, video : Trang Thanh Trúc
                     Nhật Tân trình bày



            Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố 
           Trong lòng bổng vui như đời rất lạ 
           Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa 
            Làm lời lá bay trên đường đi 
           Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia 
            Làm hồng chút môi cho em nhờ 

Môi thiên đường hót chim khuyên 
Ôi tóc trầm ướp vai thơm 
Ta nghe đời rất mênh mông 
Trong chân người bước chậm chậm. 

          Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm 
          Cho đời chút ơn biết tà áo nọ 
          Em là phấn thơm cho rừng chút hương 
         Là lời hát ca cho trần gian 
         

Dưới phường phố kia có người nhớ em 
Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường

Saturday, August 31, 2019

                                  Đá và 
                                 Thư Quán Bản Thảo
                                 ( số  85. Tháng 7/19)



Về Houston
Trần Hoài Thư
  
Về Houston lần này mọi sự được êm đẹp ngoài sự tưởng tượng của tôi. Trước hết là tình trạng sức khỏe của Y. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ để tôi quan ngại. Năm ngoái, đã mua vé tàu đành bỏ vì đến gần ngày đi thì Y. phải được đưa vào Emergency và phải nằm trong phòng đặc biệt mất một tuần lễ, mạng sống như sợi chỉ mành treo chuông. May mắn thứ hai là con tôi được mấy ngày nghỉ. Nó lái xe từ tiểu bang cạnh qua NJ để thay mặt tôi chăm sóc mẹ.
Như vậy là tôi lên đường như một kẻ ẩn sĩ xuống núi. Buổi sáng tinh sương lành lạnh, phi trường ít người, ít xe vì quá sớm, khiến tôi dễ dàng tìm bãi gởi xe rẻ tiền để từ đây xe bus bốc đưa về phi trường. Tôi gởi vali hành lý vì nó quá nặng, quá khó mang theo bên mình. Hành lý chỉ là những tập thơ tôi mới in. Nhất là lần in này, tôi làm bìa có vân nổi trên giấy láng. Nhan tựa của tập thơ mới nhất là Đá, lấy từ tựa một bài thơ hiện diện ở trong thi phẩm:
Em có bao giờ thấy một người nào chắn đạn ?
Em có bao giờ nhìn những khói đá bốc lên
Và những tia lửa hồng tức tối xẹt cuồng điên
khi trăm ngàn đầu đạn đâm vào thân thể đá ?
Và bây giờ anh cũng mong được làm phiến đá
Để chai lì với những bọt sủi niềm đau !

Đó là những gì tôi chỉ có thể có được trong đời sống hiện nay. Bạn bè thương tôi, cảm thông hoàn cảnh của tôi, tôi biết làm sao mà đền đáp. Chỉ có tập thơ này. Nó do chính tự tay tôi làm, từ đầu đến cuối, từ A đến Z. Nó hèn mọn lắm:

Xin tặng đời, một món quà hèn mọn
Tôi không biết lấy gì đền đáp chỉ thơ
Tôi đang ở tận cùng những mất mát tuổi già
Xin rộng lượng để bàn tay tôi khỏi vuột !

Sau gần bốn giờ bay, tôi đã được thở trong một cõi đất trời khác, thế giới khác. Những ngôi lầu, building, những con đường tấp nập xe cộ đã thay thế những hàng cây xanh, những con nai, hay những ngôi giáo đường … Người đón tôi ở phi trường là Bùi Huy tức là nhà thơ Tô Thẩm Huy. Vẫn là mái tóc bồng bềnh, dù kỳ này thấy anh mập hơn xưa. Cám ơn đất trời đã cho tôi có những bạn bè tốt. Và cảm tạ văn chương đã cho đời những tâm hồn đồng điệu. Quen biết là một sợi dây buộc hai người, nhưng với những kẻ mang giòng máu thơ văn, sợi dây ấy càng buộc chặt hơn…
Có phải ?
Tôi nói lên niềm mong mỏi lớn nhất của tôi trong kỳ về Houston này là được đến nhà quàn để nhìn nhà thơ Tô Thùy Yên một lần cuối. Tôi muốn cảm ơn anh, dù trong tình trạng bệnh hoạn trầm kha nhưng vẫn còn nhớ đến tôi, tặng tôi thi tập cuối đời của anh. Giòng chữ run rẩy trên trang đầu, chứng tỏ là anh phải rất khó khăn lắm mới cầm bút và viết..
Nhưng Huy cho biết, xác anh TTY chưa được tải về nhà quàn vì nhà quàn hết chỗ. Phải dời lại một tuần.

Việc dời lại này đã giúp Huy – người mà gia đình xem như là người nhà, và anh TTY xem như là một bào đệ, một người bạn tri kỷ về văn chương- mới được rảnh tay để “take care” toàn phần tôi trong hai ngày ở Houston.
Có lẽ có người cho việc dời ngày tang lễ hay ngày thăm viếng nhà quàn chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ. Riêng tôi thì khác. Bởi chính tôi nhận được món quà vô hình vô giá này. Sự giao cảm giữa những thi sĩ thì lạ lùng lắm. Hình như họ bắt được mạch nhau. Đó là cái mạch mà đời thường không thể thấy hay cảm nhận nổi.

Gặp lại bằng hữu
Sau khi ghé nhà Huy để bỏ lại cái vali nặng trĩu Đá, Huy buổi trưa chở tôi đến nhà PVN để dùng cơm. Gặp lại bạn cũ. Gặp lại chị Nh. Gặp lại Tuyên, người mà chúng tôi xem là em gái, vui như chợ Tết. Tôi như thằng bị khóa miệng lâu năm, giờ mới được tự do. Nói cười thả dàn. Và ăn cũng thả dàn. Món gì cũng “double”. Dù răng chẳng còn một chiếc ! Nhất là món Bánh Canh mà PVN là đầu bếp. Tôi hỏi về cách nấu. Và PVN thì cặn kẻ dạy tôi. Hai phút bỏ trong Microwave. Một phút trụng nước sôi…Văn chương văn nghệ thi phú giờ này là gia chánh. Nghĩ lại, có lẽ không có một ai có cùng một hoàn cảnh giống nhau - rất giống nhau - như PVN và tôi… Cùng sinh vào tuổi ngựa. Cùng đi lính ở Bình Định. Cùng tốt nghiệp lò “khu Sáu” Qui Nhơn. Cùng lưu lạc ở Nha Trang, Tháp chàm... Cùng chủ trương tờ tạp chí “có một không hai” là TQBT suốt 18 năm nay. Cùng bị bệnh ở chân nên phải chống gậy. Cùng có vợ bị bệnh không thể di chuyển. Và bây giờ cùng trở thành nội tướng nấu ăn bất đắc dĩ. Chỉ có khác là bạn tôi đã trở thành ông cố. Còn tôi thì mới lên chức ông nội.
5 giờ chiều, anh chị Phan Xuân Sinh mở tiệc khoản đãi bạn bè. Có người đến từ VN như nhà thơ Từ Hoài Tấn. Có người mãi tận CA như họa sĩ Nguyễn Đình Thuần. Hay từ NJ là tôi. Hay từ Dallas như anh chị Trần Doãn Nho. Ở địa phương có anh Lương Thư Trung, CTT, PVN, TTH v.v.. Ngoài ra còn có một số bạn khác mà tôi quên mất tên. Tôi mang Đá ra tặng. Bởi tôi chỉ có bấy nhiêu đề làm quà cho bạn bè. Như nhà thơ Tô Thùy Yên, dù bệnh nặng, vẫn cố gượng viết vài giòng chữ tặng anh em. Hai người bạn tôi mong đợi là Lữ Quỳnh và Lữ Kiều không có mặt. Lí‎ do: họ không về kịp.

6 giờ chiều, bạn Huy làm tài xế chở tôi và PVN ra ngoại ô Houston để tôi tham dự một party “reunion” mà người tổ chức là cháu gái tôi. Tôi không thông báo việc tôi đến Houston. Tôi muốn cả đại gia đình có mặt phải ngạc nhiên về một ông chú bụi, chú hoang đàng, chú đãng tử, chú bất cần, chú đi lính dữ, chú viết văn làm thơ... Tưởng tượng hai ông anh ruột và hai bà chị dâu của tôi sẽ phải ngạc nhiên lắm lắm. Và cả nhà sẽ phải òa vỡ niềm vui đoàn tụ...
Vậy mà khi tôi xuất hiện trước những bàn tiệc đông đảo người, bi bô huyên thuyên cười nói múa tay múa chân nhưng chẳng ai buồn ngó hay quan tâm. Đến nỗi tôi phải chặn ông anh thứ hai, nhìn ổng và hỏi: Anh biết ai không ?

Trời ơi, tôi đã trở thành một con người khác rồi. 6 năm chăm sóc Y. đã làm tôi thay đổi đến thế sao ? Mỗi ngày phải nuốt vào bao nhiêu muối lệ. Và mỗi ngày cũng phải nhỏ ra bao nhiêu lệ muối. Mỗi ngày tôi đóng kịch, để trở thành người bạn đồng hành với người loạn trí. Hay là tôi cũng trở thành một lão gìa điên loạn cũng nên.

Các bạn ở Houston của tôi ơi. Từ lâu tôi chưa bao giờ soi gương, nhưng kỳ về này, tôi đã được soi gương để thấy rõ hơn về mình. Tôi vẫn bụi như thời trẻ. Ngay cả chụp hình với nữ họa sĩ Thanh Hằng, áo vẫn không hề  cài khuy trọn vẹn !
 Như  tấm hình dưới đây, chụp cách đây 6 năm, khi đưa bà xã viếng chùa cách nhà khoảng 2 tiếng đồng hồ:
Tuổi trẻ  áo banh  vào trận mạc
Tuổi già  banh áo  đẩy xe lăn !
 Nhìn xung quanh ai cũng quần áo chỉnh tề,  cung kính. nhìn mình thấy như môt tay du côn, xem chỗ tôn nghiêm không ra gì. Lại ưởn ngực, để người khác chụp hình mới anh chị chứ !
Không phải thế đâu !
Nếu kết tội thì kết tội  cái thói quen.
Cái thói quen từ  thời đánh giặc. Trong khi có kẻ gân cổ xem cái chết tựa lông hồng,  nhưng áo giáp thì che thân, áo bào che ngực, nón sắt che đầu còn  ta thì mũ rừng nhẹ hẩng, không áo giáp che mình, đưa bộ ngực lép ra mà hứng đầu tên mũi đạn trước hết vì là lính thám kích, khi gặp bạn thì mặc  bom dội pháo rền, rũ vào quán tiếp tục banh áo:

Chiến tranh thì vẫn là tranh chiến
Mặc. Kéo nhau vào quán chị Hai
Mặt trời đỏ ối trên vàm xáng
Banh áoNgâm bài thơ Cổ Lai

Hớp rượu cay cay chiều nhạt nhạt
Rừng lau trắng bạc dòng kinh xa
Ai ngồi đốt thuốc trên bờ xáng
Hay lính bộ binh quá nhớ nhà?

Cái thói quen banh áo, vì để hứng gió, cũng như vì ngứa ngáy mấy thứ phù vân trên người, muốn trần truồng, muốn kêu gào tự do muôn năm, muốn thơ phải nóng với rượu để cuồn cuộn chảy trong người… Không ngờ nó lại nằm trong máu thật, khổng chiu rời để bây giờ lại thêm một lần banh áo bên bạn ta, cũng như trong sân chùa  và bây giờ ‎bên cạnh vợ bạn mình thì chẳng lịch sự chút nào !
Chị TH, xin lỗi chị nhé.

Người tôi được soi gương thứ hai là Lê thị Hoài Niệm mà tôi xem là em gái. LTHN là độc giả của tạp chí TQBT từ số đầu tiên. Nhưng mãi sau 17 năm, tôi mới được cơ duyên gặp mặt. Thú thật tôi rất e dè trước phái nữ khi phải đứng ra ưởn ngực chụp hình, bởi hầu hết những cô những chị đều tỏ lòng thương hại, hay sụt sùi, hay kêu trời ơi sao anh Thư lại thảm vậy hà ! Nhưng với cô em gái tôi, ví tôi như một tiên ông đạo cốt - 4 chữ mà thật lòng tôi không hề dám nhận  bởi xét ra mình quá trần tục - đã làm tôi càng thấy mỗi giao cảm kỳ diệu của những tấm lòng văn chương với nhau. Chúng tôi có cái nhìn khác cái nhìn thường tình. Và cũng vì cái nhìn này nên  Houston có một ngày hội ngộ. Từ VN qua. từ CA  đến. Từ NJ về. Và những triền miên lai láng tình thân chảy từ ngày đầu đến ngày cuối. Nó  không phải là cái nhìn thương hại, mũi lòng. Dù hôm ấy, LTHN đã không ngừng bỏ vào cart trong một tiệm thực phẩm VN, hết đòn bánh ú này đến gói chã lụa khác, hết hộp bột nấu phở này đến hộp súp khác cho tôi, vì biết là ở chỗ tôi không có tiệm VN mà tôi rất cần để nấu ăn cho Y. Buổi trưa ở Houston nóng kinh khủng, vậy mà  tôi cảm thấy mát dịu lạ thường, vì bóng mát  tình bằng hữu văn chương đã rợp ngát cả lòng  tôi!
Còn nữa. Còn rất nhiều những người bạn quí để tôi phải nhớ mãi trong chuyến đi này. Bùi Huy thì lo cho tôi từng giây từng phút, và can đảm để nghe tôi nói, tôi kể, tôi đọc thơ suốt dọc đường đưa và đón... Lữ Kiều thì ngồi cạnh tôi, vẫn dáng dấp khoan hòa, thỉnh thoảng nói lên một vài ý‎ nghĩ về văn học nghệ thuật và sự trường cửu của nó. Nữ họa sĩ Thanh Hằng cũng vậy. Ít nói. Ít bàn. Chỉ lắng nghe. Chỉ nói với ông xã để Lữ Kiều cứ tấm tức nhắc nhở hoài một bài thơ trong Đá. Và Dung, hiền nội của Bùi Huy cũng vậy. Anh chị PXS đôi bạn không rời, luôn luôn có mặt. Rồi anh Lương Thư Trung, Lê Hoàng Viện, Trần Bang Thạch.. Họ đến. Và chỉ cần cái bắt tay thật chặt. Là đủ. 
Tuổi già chỉ cần bấy nhiêu. Phải vậy không ?

Trần Hoài Thư

Monday, August 19, 2019


                             Đá
                            Thơ: Trần Hoài Thư




Tập thơ Đá của anh đến với tôi trong buổi chiều mưa lất phất qua vườn nhưng không khí vẫn hầm hập hôi hổi nóng của ngày hè. 
Không hiểu vì tựa đề thơ hay bởi tôi vừa đọc xong bài anh viết trong chuyến về Houston với bằng hữu, những người bạn hơn nửa thế kỷ mới gặp lại, những vòng tay ôm, những bịn rịn vì thời gian quá ngắn để có thể nói cho hết những tình cảm chất chứa trong lòng.. có phải vì những điều đó mà khi đọc thơ của anh, trái tim tôi nặng trĩu nỗi buồn.
Mỗi người đều có một số phận, một định mệnh mà Thượng đế sắp sẵn, ta không được lựa chọn mà phải chấp nhận để chịu đựng và sống tiếp. Nhưng định mệnh Đá của anh sao cay nghiệt và chua xót quá. Đọc Đá của anh và tưởng tượng những nhọc nhằn khổ nạn mà anh phải gánh trên đôi vai gầy trơ xương đó, tôi không thể, không thể cầm được nước mắt. 
Khổ nạn đó, chỉ mình anh đơn độc , chỉ mình anh chịu đựng. 
Đi khắp thế gian nầy, có người chồng, người cha nào tận tuỵ hơn anh ? Nước mắt đã từng hàng vạn lần nuốt ngược vào trong, ngày chất chồng chỉ chực bung vỡ. 

Dù vậy, với anh..

“Tôi thấy cuộc đời hôm nay đẹp quá
Tôi thấy lòng tôi vô lượng vô chung..
Trong trái tim tôi có nhiều ngăn tủ
Có cả một  ngăn dành cho tháng Giêng..

Ngậm ngùi lắm khi đọc bài thơ “ Thơ của lão già sống một mình “

Xin tặng đời một món quà hèn mọn
Tôi không biết lấy gì đền đáp chỉ thơ
Tôi đang ở tận cùng những mất mát tuổi già
Xin rộng lượng để bàn tay tôi khỏi vuột”
...
Anh Thư. Lúc nào anh và chị cũng ở cạnh bên em, trong trái tim em.
Như ngày ấy và bây giờ. 

Wednesday, August 14, 2019

                      Tình Lỡ
                      Nhạc: Thanh Bình
                     Ca sĩ: Khánh Ly


Bao nhiêu thương nhớ rồi quên hết
Không còn nhớ nỗi một cái tên..

Câu thơ anh viết cho tôi trong lá thư , gửi từ một nơi xa xôi, trải qua bao đại dương xanh thẫm, bao núi đồi trùng điệp và nó dội trong lòng tôi như nghìn vết cắt..
Biết là không còn gì để nuối tiếc khi giở lại những ký ức về một mối tình thời tuổi trẻ. Cái thuở nghìn lần ngây thơ, trăm lần nông nỗi.. 
Mối tình ấy đã đánh dấu cả một khoảng thời gian tươi đẹp, hân hoan gió và hừng hực nắng.
 Mối tình nở trong thời chiến tranh và cũng tàn lụi khi cuộc chiến tàn. 

Có thật anh đã quên, ngay cả cái tên anh đã nghìn lần gọi ?
Tội nghiệp thay, trong trái tim già nua của anh bây giờ, không còn nhớ nỗi dù chỉ một cái tên.            

Tuesday, August 6, 2019




                         Thẻ bài ( ảnh KV)



Viết về một người tôi thương mến và kính trọng.
( Khôi Việt )

Hình như những cấp chỉ huy trực tiếp thoạt đầu đều không ưa tôi, nếu không nói là ghét và kiếm cách đì cho bõ ghét. Mục tiêu nào khó nhai thì thảy đại đội tôi vào. Có thể hồi trẻ tôi không biết cách nói năng sao cho phải đạo, cho dễ nghe, cộng thêm dáng điệu và mặt mũi lúc nào cũng có vẻ nghênh ngang bất cần đời. Nhưng đó chỉ là dáng vẻ mặt mũi thôi. Tôi lúc nào ăn mặc cũng đúng tác phong, tay áo xăn cao, quần gom ống, tóc hớt cao đàng hoàng.
Chắc có lẽ ông và cả bộ chỉ huy tiểu đoàn không có thiện cảm với tôi mấy, trong ngày tôi trình diện ông để nhận đại đội. Vì trước đó mấy tháng tôi bỏ đơn vị cũ, đưa đơn tố cáo tham nhũng lên Tổng thanh tra Quân Lực, và trình diện thiếu tướng Lữ Lan. Sau những cuộc điều tra của phái đoàn thanh tra, rất nhiều người bị bắt và vào tù.
Nên lúc đến bộ chỉ huy tiểu đoàn để nhận lệnh về nắm đại đội, tôi dễ dàng nhìn thấy sự e dè lạnh nhạt của nhiều người. Một người đi đưa đơn tố tham nhũng, chắc chắn là khó chơi rồi.
Ông và tôi nói chuyện khá lâu về khu vực hành quân, về những điều cần thiết về an ninh trong đại đội mà tôi sắp về làm đại đội trưởng.
Ông người Nam, sanh ở Trảng Bàng, giọng nói chậm, từ tốn, khuôn mặt xương xương khắc khổ. Tôi có cảm tình với ông ngay từ phút đầu. Trước khi thuyên chuyển về tiểu đoàn của ông, tôi biết ông là một người rất giỏi và can đảm hơn người, có nhiều kinh nghiệm chiến trường và rất tốt với binh sĩ dưới quyền.
Nhưng chắc ông hơi buồn vì khi nói chuyện đã xong, ông nói tôi qua câu lạc bộ uống vài chai với mấy sĩ quan của các ban trong bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tôi cáo từ để lúc khác vì tôi cần về gặp binh sĩ của đại đội tôi cho sớm. Lúc đó cũng xế chiều.
Về sau ông có nhắc lại chuyện đó với tôi lúc có mặt đủ 4 đại đội trưởng: tao mời nó mà nó không thèm đi uống với tao một chai. Làm như tao có lính ma lính kiểng. Mặt nó lúc ấy "trầm trọng" thấy ghét lắm.
Tôi cũng cười và phân bua, lúc đó chiều rồi Thiếu Tá, phải về lo đơn vị mới chứ. Cần phải nói thêm một điều, ông rất trong sạch, sống giản dị, không có những chuyện lem nhem tiền bạc. Lúc nào cũng lo cho 4 thằng em (4 đại đội trưởng) và các binh sĩ dưới quyền.
Sau nhiều ngày tháng hành quân cùng nhau, sau nhiều lần đụng trận. Ông đã hiểu và gần tôi hơn.
Trong chiến tranh, ra vào, va chạm giữa sống chết chỉ cách nhau mỏng manh như sợi tóc, cái tình cảm thường gọi là tình đồng đội chỉ có những người đi chiến đấu cùng nhau mới hiểu được nó gắn bó và quan trọng như thế nào.
Đại đội của tôi và đại đội 4 nằm vòng đai bảo vệ bên ngoài, vòng bên trong là bộ chỉ huy tiểu đoàn cùng một trung đội Pháo Binh với hai cây đại bác 105mm. Trại nằm sát mật khu Bời Lời, nơi đây thường xuyên bị pháo bằng cối 82 và đôi khi bằng cả 85 sơn pháo. Loại này bắn rất nhanh, mới nghe tiếng départ là thấy cái "oành" rồi. Tuyến phòng thủ của đại đội tôi hướng mặt về phía mật khu Bời Lời, nên hay bị bắn sẻ, hoặc dính đạn pháo kích hơn tuyến phòng thủ của đại đội 4. Ngày hôm ấy, em ôm con bé Tiểu Quyên lên thăm thì đêm bị Việt cộng pháo kích bằng cối 82, tôi nhảy lên nóc hầm chỉ huy để quan sát hướng tác xạ của địch hầu hướng dẫn cho pháo binh phản pháo. Em tôi cũng lò mò leo lên theo, bỏ bé Quyên một mình trong căn hầm, vừa đứng đâu chừng 5 phút đã nghe liên tiếp tiếng départ của 85 sơn pháo. Một trái bắn trúng ngay dưới chân căn hầm của tôi,hai đứa vội vàng lôi nhau nhảy xuống đất, may không bị sao hết. Chạy vào trong hầm thấy con vẫn đang ngồi chơi tỉnh bơ trong chiếc xe đẩy, chẳng có vẻ gì quan tâm vì tiếng nổ cả. Em không sợ hãi gì còn cười rinh rích. Tuổi trẻ lạ thật, có thể cười nói giữa những sống chết sát một bên. Hay là khi có tình yêu, có nhau, thương chồng, nên người ta chẳng sợ gì chăng.
Chắc vậy, nên đã có rất nhiều người vợ thăm chồng ở những tiền đồn xa xôi, khi trại bị tấn công họ đã tiếp đạn, làm y tá "bất đắc dĩ" rất nhanh và khéo léo. Trong chiến tranh mới thấy người vợ lính can đảm chẳng sợ gì cái chết, đường vào các trại biên phòng thường là đường đất, đôi khi xuyên qua những cánh rừng, nên hay bị gài mìn, nhưng các bà mẹ hoặc vợ lính vẫn thường xuyên ngồi vắt vẻo trên xe lôi đến với chồng và con của họ.
Rạng sáng hôm ấy, đại đội tôi ba lô súng đạn rời căn cứ để "bắt tay" với đại đội 1 của trung uý Hiệp đóng tại căn cứ Trung Hưng, cách tôi khoảng chừng 3 cây số sau đó sẽ cùng nhau đi phối hợp hành quân lục soát tại mục tiêu là một cánh rừng chồi nhỏ, . Nhìn trên bản đồ thấy có vẻ dễ ăn, nhưng khi Hiệp vừa cho đại đội của nó tản ra bám vào bìa rừng chồi để đợi đại đội của tôi tới thì bị bọn Việt cộng nằm phục kích hồi nào trong khu rừng bắn như mưa. Từ bộ chỉ huy tiểu đoàn, Thiếu tá Duy gọi cho tôi với giọng như lửa đốt:
- 65 (tên nguỵ thoại của tôi trên máy truyền tin) đây Bạch Mai, mày đi tới đâu, lên cho lẹ bắt tay với thằng Hồng Hà (Hiệp) con cái nó đi phép nhiều lắm rồi.
-Tôi có nghe trên máy mà , sẽ đi cặp bên trái con lộ, thằng Hồng Hà giờ đang nằm trước tôi bên phải con lộ. Tôi sẽ đánh ngang hông bọn ve chai (VC) Con cái tôi đang cách thằng Hồng Hà khoảng một cây số nữa.
- Khi nào mày tới gần nó, tản ra bố trí đợi tao.
- Bây giờ Bạch Mai (tên nguỵ thoại truyền tin của thiếu tá Duy) cho gà cồ gáy hiệu quả mấy cái hoả tập tiên liệu trước đi đã. Nó đánh thằng Hồng Hà sáng sớm như vầy phải coi chừng nó chặn mình đó Bạch Mai.
Không thể tiến quân nhanh hơn theo ý của Bạch Mai được, vì linh tính và cảm nhận chiến trường cho tôi thấy có một cái gì không bình thường phía trước. Bây giờ tôi chỉ cách điểm giao tranh chưa đến một cây số, địa thế chỉ là một rừng chồi xen lẫn cỏ Tranh trống trải và cây Mua chỉ lưa thưa ngang bụng, địch quân có mù cũng thấy đại đội tôi đang cặp trái con lộ đất tiến lên, nhưng không thấy có dấu hiệu bắn chặn hoặc pháo kích chúng tôi bằng súng cối. Như vậy phía trước đã có một cái bẫy đã dăng sẵn.
Giờ đã rất gần đại đội 1, nghe tiếng AK, B40 nổ tự nhiên thưa thớt dần, Hiệp gọi tôi, giọng nói của nó giờ cũng có vẻ bực bội khi thấy tôi không đến nhanh như mong muốn.
Nhưng tôi vẫn không vội vã, dừng quân lại quan sát bố trí, cho pháo binh bắn dọn đường vài toạ độ nghi ngờ để dễ dàng bắn hiệu quả khi cần.
Lệnh cho chuẩn bị lựu đạn, M72 sẵn sàng vì bọn chúng có thể từ dưới đất nhảy lên chơi mình.
Chỉ còn cách thằng Hồng Hà chừng 300 mét. Bằng mắt thường tôi cũng thấy những người lính bị thương hoặc có thể đã chết nằm rải rác trên con lộ.
Bạch Mai gọi tôi: mày nắm được thằng Hồng Hà chưa?
-Trình Bạch Mai, chưa, nhưng tôi gần sờ được áo nó rồi. Thấy rõ mấy thằng em đi phép nằm trên đường.
-Mày bung con cái ra đợi tao ở đó. ĐM, đánh giặc gì mà rờ rờ như c...
Tôi nghe ông chửi nhưng không cảm thấy giận. Bình thường ông rất quan tâm lo lắng khi thấy binh sĩ trong tiểu đoàn bị thương hoặc chết khi đụng trận, và phải cứu ra bằng bất cứ giá nào.
Có một cái gì bất thường trong cách nói chuyện nóng nảy rất lạ ngày hôm nay của ông. Với tôi, ông là một cấp chỉ huy giỏi, điềm tĩnh không nóng nảy, nhiều kinh nghiệm chiến trường,. Nhưng ông có một điểm yếu là rất thương yêu đơn vị của ông đến quên thân mình. Các đại đội thường đóng quân rải rác, nhưng khi có chuyện là ông bằng mọi cách để đến nơi cho bằng được.
Tôi bốc máy gọi ông, nhưng người trực máy hậu cứ nói ông đã lên xe Jeep của ông cùng trung đội thám báo tháp tùng đi rồi. Mày gọi Bạch Mai, phải ngừng xe trên đường ngay chỗ tao nằm đợi, tao nghĩ là nó sẽ phục kích đó. Tao vào tần số hành quân gọi ổng không được.
Vừa nói xong ít phút sau nghe tiếng xe chạy ào ào trên đường phía sau, nhìn về con lộ thấy xe Jeep của ông chạy vụt qua, theo sau là chiếc xe Dodge chở tiểu đội Thám Báo, tôi không nghĩ đến chuyện gọi máy nữa, chạy như điên khùng ra đứng hoa chân múa tay kêu dừng lại nhưng vô hiệu. Đúng như tôi đã lo ngại. Xe ông chạy thêm chừng 300 mét là bên trái đường tiếng B40, trung liên nồi bắn ra như mưa bấc. Chiếc xe Dodge bị trúng B40 nằm quay ngang trên đường, tôi cùng đại đội chạy tới, tuyệt vọng nhìn thấy đằng xa trước mặt, những bóng người với quần áo xanh lá cây đang phóng ra khỏi hầm hố nguỵ trang bên đường, và ông hơi loạng choạng, hình như đã bị thương, vẫn một mình xông lên với khẩu M16.
Nhưng rồi ông đã trúng đạn, ngã quị trên đường, và chúng nó chạy tới bu quanh ông, sau mới biết là chúng cắt mất 2 bông hoa mai cấp bậc của ông, chắc để báo cáo đã diệt được một thiếu tá "nguỵ".
Cả đại đội chạy hết tốc lực xung phong lên, chưa bao giờ tôi thấy những người đồng đội của tôi lại chiến đấu dũng cảm như ngày hôm ấy.
Xong trận. Bọn chúng bỏ chạy khỏi cánh rừng cây Mua, bỏ lại nhiều xác chết nằm thẳng cẳng. Chúng tôi đã thắng trận, nhưng mất đi một cấp chỉ huy dũng cảm, tận tuỵ hết lòng với đơn vị.
Tuy chết vì bị trúng đạn rất nhiều, nhưng ông nằm nghiêng như đang ngủ, khuôn mặt thoải mái bình yên. Tôi đã ngồi bên cạnh ông cho tới khi xe tải thương đến.

Và tôi khóc.
Đó là tiểu đoàn trưởng của tôi. Cố trung tá Bùi Văn Duy.
Vẫn thương nhớ anh đến giờ. Anh Duy ạ.
(Nguyễn Khôi Việt)

Góc của T. Tôi vẫn nhớ mầu nắng của thị trấn đó, những chuyến xe lam chở khách, xe thổ mộ lắc lư lóc cóc trên con đường đầy bụi, Vẫn, trong ký ức của tôi, tiền đồn nằm chênh vênh heo hút. Chúng tôi thường leo lên nóc hầm đá xanh nhìn phía xa xa khu rừng thưa thớt cây. T phía đó, Việt công pháo kích vào tiền đồn hằng đêm. 
Những bụi  Chùm bao leo rải rác trên hầm đá, xanh tươi mơn mởn như không hề biết chiến tranh đang hàng giờ rình rập.
Thú vui của tôi , lúc ấy, nhẩn nha nhấm nháp vị ngòn ngọt chua chua của trái chùm bao.Những tiền đồn nơi anh đóng quân như căn nhà thứ hai của tôi. Những người lính trẻ, trở về đồn sau đêm đi kích, họ cười nói ồn ào  hấp háy mắt đỏ bơ phờ mệt mỏi. Họ vẫn lạc quan dù hằng ngày đối diện với cái chết cận kề..Ôi , những ngươì lính trẻ của chúng tôi..
Tôi yêu họ xiết bao!!!
Đoạn hồi ký của anh về  vị tiểđoàn trưởng mà anh yêu quí làm tôi muốn khóc, dù đã bao nhiêu năm trôi qua. Có ai còn nhớ tới ông ? Có còn nhớ, chính tại nơi đó, máu và nước mắt đã trộn chan hòa theo dòng máu đỏ thấm lặng lẽ trên từng vuông đất, cho đất hồi sinh.
" Ngươì lính già không bao giờ chết. Họ chỉ mờ nhạt đi thôi " (*)
(*)The old soldier never die, they only fade away.




Wednesday, July 31, 2019




                            Gọi người yêu dấu
                            Nhạc sĩ: Vũ Đức Nghiêm 
                            Ca sĩ: Thanh Lan



Gọi Người Yêu Dấu
 ( Viết từ Quang An )

Nói về nhạc tình của Việt Nam, nhiều người trong chúng ta nhớ đến Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Ngô Thuỵ Miên, Vũ Thành An, v..v... mà ít ai để ý đến một nhạc sĩ đa tài khác là Vũ Đức Nghiêm.  Cũng rất đơn giản vì Vũ Đức Nghiêm viết nhạc tình không nhiều lắm.  Lúc bắt đầu sự nghiệp về âm nhạc, Vũ Đức Nghiêm sáng tác nhiều về nhạc quân hành.  Lý do cũng có thể dễ giải thích vì Vũ Đức Nghiêm, người con của xứ Nam Định, do yêu âm nhạc từ nhỏ, và lại gia nhập quân ngũ từ rất sớm.  Năm 1951, ông vào học Khóa 1 trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, quân đội quốc gia Việt Nam.  Đến năm 1954, di cư vào Nam, ông lại tiếp tục đời binh nghiệp dưới màu áo trận của quân lực Việt Nam Cộng Hoà.  Cấp bậc cuối cùng là Trung Tá, Huấn Luyện Viên Tiếp Vận, Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Đà Lạt-Long Bình.  Đây cũng là thời gian Vũ Đức Nghiêm bắt đầu sáng tác nhạc tình.  Dĩ nhiên, sau tháng 4 năm 1975, Trung Tá Vũ Đức Nghiêm đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt đi tù cải tạo hết 13 năm.  Thời gian này, dù ở trong lao tù cộng sản nhưng tư tưởng tự do vẫn có trong mình, Vũ Đức Nghiêm âm thầm sáng tác những nhạc phẩm về Ngục Tù Ca.  Đến năm 1990, sau khi được thả ra từ trại cải tạo, Vũ Đức Nghiêm đã rời Việt Nam theo diện sĩ quan quân lực VNCH trong chương trình H.O và rồi đã định cư ở San Jose từ đó đến nay.  Thời gian sinh sống ở Mỹ, Vũ Đức Nghiêm lại sáng tác các nhạc phẩm về đạo về đời.  Chính vì những sáng tác không mệt mỏi trong lãnh vực âm nhạc mà Vũ Đức Nghiêm đã được bà Elaine Alquist, dân biểu quận hạt Santa Clara, tiểu bang California, tuyên dương và trao giải thưởng đặc biệt dành cho những nghệ sĩ cao niên đã sáng tác nghệ thuật trên 50 năm vào năm 2002.

Gọi Người Yêu Dấu được giới thiệu đến khán thính giả ở miền Nam cũng rất tình cờ.  Theo lời nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm kể lại, ông sáng tác nhạc phẩm này vào năm 1969, với những rung động về một cuộc tình riêng của mình, rất phiêu lưu, nhưng không kém phần lãng mạn.  Vừa sáng tác xong thì gặp ngay ca sĩ Thanh Lan ghé chơi.  Sau khi được hát thử nhạc phẩm này, Thanh Lan đã xin nhạc phẩm này về để giới thiệu trên đài truyền thanh và truyền hình Sài Gòn.  Gọi Người Yêu Dấu, qua giọng ca của Thanh Lan, đã chinh phục giới thưởng ngoạn âm nhạc miền Nam.

Từ đó đến nay, cũng đã gần 50 năm, gần nửa thế kỷ, qua bao nhiêu thế hệ, Gọi Người Yêu Dấu vẫn khiến cho biết bao nhiêu con tim thổn thức.  Tuỳ tâm trạng, tuỳ giọng ca, từ Thanh Lan, đến Ngọc Lan, Vũ Khanh, Khánh Ly, v..v... người yêu nhạc không thể nào quên .... Gọi Người Yêu Dấu.

Hôm nay, người yêu nhạc Việt Nam lại ngậm ngùi khi thêm một nhạc sĩ đa tài của Việt Nam đã vĩnh viễn ra đi.  Vũ Đức Nghiêm, nhạc sĩ của Gọi Người Yêu Dấu đã vừa từ trần ở San Jose.  Một thế hệ nhạc sĩ tài ba của Việt Nam, những người đã đóng góp vào sự phát triển văn hoá văn nghệ Việt Nam cực thịnh vào giai đoạn 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam, từ từ đã vĩnh viễn từ giã cõi trần.  Sẽ là một khoảng cách xa vời vợi để bao giờ Việt Nam mới có thể có được một thế hệ văn nghệ sĩ tiếp nối thế hệ đã ra đi nhằm gầy dựng và phát triển lại nền văn hoá văn nghệ Việt Nam.

Chắc sẽ ca bài ... Gọi Người Yêu Dấu mãi thôi!  Vĩnh biệt nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm.

( Quang An)

Tuesday, July 16, 2019



Viết cho một cô em gái nhỏ.

Em thương.
Nơi anh ở đã bước vào mùa Hạ, trời ẩm ướt và nóng bức quá, chẳng thấy chút nào lãng mạn, diễm lệ như "Hạ hồng" của Phạm Duy, cũng không có bước chân người con gái với "chân em bước nhẹ, trời buồn gió cao" như "Hạ trắng" của Trịnh Công Sơn. Trời mưa hoài, mây đen và không khí ảm đạm chẳng nên thơ chút nào. Anh chỉ thích mùa Thu, trời dịu mát hơn, và hoa lá cũng tình tứ tươi đẹp hơn.
Có một năm, và chắc duy nhất chỉ một mùa Thu đó, vườn sau cũng như trước nhà đầy lá vàng, đỏ. Đẹp tuyệt vời như trong những tấm carte postale hồi trẻ chị thường sưu tập để ngồi nhìn và mơ mộng.
Anh và chị có nhiều sở thích, và mơ ước giống nhau. Chẳng hạn như đều có một mơ ước hồi còn trẻ là sẽ có một căn nhà gỗ nhỏ, một cửa sổ mở ra nhìn xuống một bụi hồng. Anh chị cũng đã có một căn nhà gỗ nhỏ ở Việt Nam, tuy không đẹp như mơ ước nhưng cũng rất hạnh phúc với nó. Chỉ cái là cửa sổ mở ra không có bụi hồng mà chỉ có một vườn Cúc Thái Lan, loại Cúc nhiều cánh giống như biểu tượng hoa Hippie, rất thịnh hành như một hình thức trang trí trên cặp sách, trên áo dài, mắt kiếng của các cô nữ sinh hồi năm71, 72. Ngày ấy chiến trường rực lửa, anh cực khổ nhọc nhằn bị thương nhiều lần ngoài chiến trường, nhưng hậu phương lại ồn ào make love not war. Hoa Hippie rất được yêu thích như một biểu tượng hoà bình hồi đó. Mà mất đi sự quan tâm đến những người đang ngày đêm chiến đấu.
Đầu mùa Hạ này ướt át quá. Nhưng anh chị chẳng quan tâm mấy. Anh chỉ quan tâm ngày ngồi uống cà phê với em mấy lần thôi. Lớn tuổi nhưng nhiều tối đã khuya rồi anh còn rủ chị pha cà phê uống. Anh thường nói đùa với chị ngồi uống cà phê, trà với nhau là một "nghi lễ" không thể thiếu được hàng ngày.
Mấy đứa nhỏ thường thắc mắc là sao bố má chắc có nhiều chuyện để nói hay sao mà cứ thấy rù rì ở ngoài bếp. Thật ra không phải ngồi hoài ở đó, nhiều khi chỉ chạy ra uống một tách trà, nhấp một chút cà phê, đôi khi một ly cà phê uống cả ngày chưa hết. Hình như ngồi với nhau một chút, nghe một hai bài hát là "đã" rồi, nói theo kiểu anh hay nói với chị. Đôi khi ở trong nhà, anh cũng chạy đi kiếm, em ơi em à... Chị hỏi có gì vậy anh. Chỉ gọi xem em ở đâu thôi.
Nhiều lúc chị cũng bực bội càu nhàu, nhưng chị biết đó cũng là một cách quan tâm thái quá của anh, một ngày đến năm lần bảy lượt em đâu òi, em anh ơi... thì cũng phải la chứ. Phải không?. Nhưng anh chắc chắn chị biết anh thương yêu lo lắng cho chị, rất nhiều.
Anh Hai của em chắc già rồi nên trở thành con nít, anh thích nói anh thương em lém, thương lém em ơi, em đâu mất tiu òi, buồn ngủ òi em ơi... Anh nói phải nói như vậy mới bộc lộ hết tình yêu của anh. Nói theo kiểu con nít nhõng nhẽo vậy mới được em thương. Chị cũng hết biết nói sao. Nhưng nhiều lúc chị cũng giận.
Có bạn bè hỏi anh chị sao không đi chơi Châu Âu hoặc đi Úc chơi? Đi chơi ai cũng thích, nhất là đi Úc, nhưng anh chị đi đâu xa là nhớ căn nhà , cái quán nhỏ vô cùng và chỉ mong trở về ngồi trong nó mà thôi. Ngồi trong quán nhìn ra khu vườn và hàng cây Thông xanh cao ngoài hàng rào, bờ giếng bên cạnh có cái birdfeeder để hạt cho chim rừng đến ăn. Cảnh trí chỉ đơn giản có chừng ấy nhưng nó thân thuộc gần gũi, và anh cũng như chị đều thấy nó như một phần trong tâm tưởng, trong linh hồn anh chị rồi.
Anh hay ngồi ngoài quán nhìn ra vườn, viết một bài thơ hoặc viết truyện lúc chị không có nhà, hoặc lúc chị đi làm. Ngồi đó anh mới có thể viết được, như bây giờ anh đang ngồi viết thư cho em. Ở bên trong nhà, anh không thể viết được gì cả.
Hay là khi mình lớn tuổi, mơ mộng đã dần cạn, kỷ niệm đã dần khô, nên không thể dễ dàng khi moi nó ra để viết lên những cảm xúc của mình. Chăng em?

Nguyễn Khôi Việt

Tuesday, July 2, 2019

                                
CHỊ HƯỜNG
( Phạm Hồng Ân)

Năm tôi mười lăm. Chị Hường đã mười chín, hai mươi tuổi. Năm đó, tôi chuẩn bị thi trung học đệ nhất cấp. Trong khi chị nghỉ học, ở nhà trông coi sản nghiệp của gia đình. Ba má chị là thợ máy, phải lên Sài Gòn, chạy theo công việc. Chị thui thủi một mình, nên thường ra quán kiếm tôi, nói chuyện dưới đất trên trời. Sản nghiệp gia đình chị, thật ra chỉ có một căn nhà để che gió che mưa, và một thẻo đất chứa đầy những chiếc Peugeot vẹo đầu sứt đuôi thời xa lơ xa lắc. Những chiếc xe rêu phong đã phủ đầy, cỏ dại mọc kín, vậy mà chúng vẫn nằm đó, ngó tuổi thơ chị Hường đi lên, một cách tội nghiệp. Chị càng lớn càng đẹp. Cái đẹp mộc mạc, mặn mà của loài hoa thôn dã. Lúc này, họa sĩ Lê Trung nổi tiếng trên báo chí. Tôi thường "cọp" báo hàng ngày, nên biết rõ về ông. Những bức tranh vẽ thiếu nữ của Lê Trung, thường để lại trong tôi ấn tượng rất đẹp. Chẳng biết ông họa sĩ tài hoa có bao giờ đến Cà Mau chưa? Có gặp chị Hường chưa? Sao mà những bức tranh thiếu nữ nào, cũng giống hệt bóng dáng diễm kiều của chị?
Ngoài giờ đến trường, tôi ghi tên thêm học thi. Nhà ông thầy dạy tư ở tận xóm tân lập, gần phi trường. Muốn đến học, tôi phải đạp xe trên mấy cây số, phải  còng lưng vượt qua cái cầu quay có con dốc cao dễ sợ. Khi đến nơi, phải đứng trước thềm nhà ông thầy vài phút, cầm cuốn tập quạt qua quạt lại cho bớt mồ hôi, mới yên tâm bước vào chỗ học. Thấy tôi cực khổ, chị Hường tình nguyện chở tôi đi học. Đến nơi, chị qua nhà thờ ngang đường, thơ thẩn gần hai tiếng đồng hồ, để chờ tôi tan lớp, chở về. Ngồi sau yên xe, gió thổi lất phất, vạt áo chị tung bay, thốc vào mũi tôi một mùi hương lạ kỳ.
Má tôi có cái quán cóc bên đường, bán tạp hóa và kẹo bánh lặt vặt. Cái quán, cách thẻo đất chị Hường chỉ một lối đi nhỏ. Ngồi trước quán, có thể nhìn thấy những chiếc Peugeot đen xì bên đó, nằm lúp xúp trong cỏ, và bóng dáng chị tha thướt trên sân nhà. Má thương chị, vì tính chị hiền lành, hay giúp đỡ má trong công việc khó khăn. Riêng tôi, tôi thấy chị còn đẹp, thùy mị, và có thể là đối tượng của ông họa sĩ Lê Trung nổi tiếng. Thương chị, má thường giao quán cho chị , giao cả tôi cho chị trông nom, nhắc nhở học hành. Đôi khi, ban đêm, chị ngủ lại quán với tôi, như người thân trong gia đình. Cho tới một hôm, anh tư tôi từ Sài Gòn trở về. Mùa hè, anh được nghỉ học. Anh muốn về quê tìm lại tuổi thơ, đang lẩn trốn đâu đây, quanh bờ ao, vạt cỏ. Nhưng chưa bắt gặp tuổi thơ, anh đã chớm thấy tuổi xuân trên đôi môi hồng thắm của chị Hường. Tuổi xuân lung linh những nụ mộng. Tung tăng một đóa hoa còn khép cánh e lệ, giữa trời xanh.
Từ ngày đó, chị Hường quên tôi, như quên một món đồ không cần thiết nữa. Tôi tự đạp xe đi học thêm. Khi cong lưng đạp kịch liệt lên dốc cầu, tôi kêu lớn tên chị, réo gọi chị như oán trách, giận hờn. Ban đêm, tôi ngủ chèo queo trong quán. Càng lạnh, tôi càng nhớ vòng tay ấm của chị, càng tưởng hơi thở êm đềm của chị đang phà bên tai tôi, thầm thì những lời khuyên bảo đậm đà. Suốt tháng nay, hai người hò hẹn, đưa nhau đi mất tiêu. Có bữa, má tôi phải đi kiếm khắp nơi. Vì cái món ruột, mà anh tôi thích, má đã sẵn sàng để đãi anh. Từ ngày đó, chị Hường được má tôi công nhận là một phần tử trong gia đình. Chị tạm quên những chiếc Peugeot chết tiệt để làm quen với những viên kẹo óng ánh sắc màu, nằm la liệt trong cái quán má tôi.
Chẳng hiểu tình cảm của hai người thế nào, mà anh tôi, bỏ xứ biền biệt. Chị Hường đếm từng ngày, từng tuần, từng tháng, rồi từng năm, rồi từng năm nữa...anh vẫn không trở về. Tội nghiệp, chị mòn mỏi đợi chờ, héo hắt dung nhan, người lúc nào cũng rũ xuống, như một đóa hoa sắp rơi. Má tôi buông tay đầu hàng. Má không biết thằng con trai của mình nghĩ gì, khi cô dâu đã dâng đến trước mặt, khi mọi chuyện đã hoàn tất, chỉ chờ sự trở về của chú rể. Tôi nhìn chị Hường đau khổ, lòng không cầm được xót thương. Muốn nguôi ngoai, tôi quay qua làm thơ, diễn tả nỗi thất tình của một người yêu bị bỏ rơi. Bài thơ ấu trĩ đó, lại lọt vào mắt chị. Đêm, ngủ trong quán, gần tết, gió bấc lạnh thấu xương. Tôi day lưng về chị, nằm co quắp, ngủ ngon lành. Tôi tỉnh dậy, vì có cánh tay ấm áp dang ra, kéo nhẹ tôi vào lòng. Và tiếng thỏ thẻ của chị, vang lên trong đêm khuya.
- Bộ em thất tình hả Bé? Con trai mà thất tình, kỳ lắm nha!
Tôi vươn vai cho tỉnh ngủ,rồi rúc sâu vào ngực chị. Một mùi hương kỳ lạ từ da thịt chị phả ra, làm tôi ngây ngất.
- Sao chị biết? Chắc coi lén thơ phải không?
- Thấy em làm thơ, chị tò mò. Té ra em bỏ học, chạy theo một cô gái.
Tôi muốn phân trần với chị, về bài thơ. Tôi làm thơ vì xót thương chị. Vì không chịu nổi cảnh một người yêu chờ mãi một người yêu. Nhưng thôi, hãy để chị nghĩ đến tôi như kẻ thất tình, có vẻ hay hơn, có vẻ lãng mạn hơn đôi chút.
- Em tưởng tượng chị ạ! Em vẫn học thi, có bỏ đâu?
Chị Hường ôm tôi, nhẹ nhàng. Những lọn tóc dài rớt xuống mặt tôi, trong đêm tối, sao nó huyền ảo, lung linh như bức tranh vẽ thiếu nữ của họa sĩ Lê Trung. Tôi mơ màng, quay lại, quấn chặt lấy chị. Và bên tai, vẫn văng vẳng tiếng thỏ thẻ của chị.
- Bé nè! Bé đẹp trai. Hổng có thất tình, nghe chưa?
Cho tới một hôm, chị Hường ra đi. Ngày chị đi, tôi không hay. Khi biết được, cánh cửa nhà chị đã khóa kín. Hàng bông huệ sân trước, rũ lá, khô cành. Đứng trong thẻo đất chị, bên cạnh đống Peugeot tật nguyền, tôi cảm thấy cô đơn muốn khóc. Xung quanh đây, từ căn nhà chị đến cái quán má tôi, dường như đầy dẫy bóng dáng chị, dường như đó là phần thân yêu, buộc chặt vào đời sống tôi, không thể bứt rời.
Những ngày sau, tôi như một kẻ thất tình, thật sự. Tôi bắt đầu chìm ngập theo thơ. Tôi bắt đầu uống rượu, tụ ba tụ năm với bạn bè, say khướt trong những đêm muốn nổi điên. Nhưng tôi vẫn học. Vì học để vươn lên, để thoát khỏi bàn tay nhầy nhụa của chiến tranh. Đến năm tôi chuẩn bị thi tú tài II, chị Hường bỗng trở về. Chị đi thẳng vào quán, ôm má tôi, nức nở. Cả nhà ngạc nhiên. Má tôi cảm động, bật khóc. Tôi ngỡ ngàng, ngó chị. Vừa mừng, vừa xót thương vô vàn. Chị không còn là thiếu nữ mộng mơ của Lê Trung nữa. Chị đã già dặn, đã vàng võ hơn xưa. Hình như chị đang lao lung. Đang bị cuộc đời quăng vào nơi chốn bất an.
Thăm má một lát, chị vội vàng từ giã đi. Tôi chạy theo, nắm tay chị, kéo lại.
- Tối rồi. Chị ngủ lại đây cho vui. Mai sẽ về.
Chị Hường bùi ngùi nhìn tôi. Tôi se sắt nhìn lại. Tôi thấy đôi mắt chị long lanh ngấn lệ.
- Không được em ạ! Chị có bạn. Bạn chị đang chờ.
Từ đó, tôi mất chị Hường luôn.
Mãi sau này, lên đai học. Rồi đi lính. Tôi có ý định tìm chị, nên lang bạt khắp nơi. Chẳng mãn nguyện, tôi tìm trong thơ, trong rượu, trong nhan sắc của mỗi gái điếm. Tôi nhào vào cuộc chiến như nhào vào cuộc tình. Đánh rồi rút. Yêu rồi đi. Chẳng cần ngày mai. Chẳng cần tương lai. Cho tới một hôm, tôi về Vũng Tàu. Đêm ở đây yên lành. Biển ở đây êm đềm. Trời đẹp như thế này, sao không thả ra phố làm một cốc cà phê cho ấm dạ? Tôi lủi vào góc một quán nhỏ, ngồi nghe dòng nhạc Trịnh bay nhảy trên môi Khánh Ly. Quán thưa người, có vài cặp đang thu mình ở các góc vắng, thầm thì. Tôi chờ cà phê bằng những ngụm thuốc lá. Lâu rồi, những ngụm khói vô tri này đã trở thành bằng hữu, bên cạnh tôi, trong suốt các nỗi buồn. Nó cũng hút tung bụi thơ lấm tấm từ hồn tôi, truyền tình cảm xuống bàn tay, bắt viết nên từng con chữ vấy huyết, tận cung tim. Vì vấy huyết, tôi yêu các con chữ này, đến hơi thở cuối. Tôi không bỏ thơ. Có thể, từ lâu, nó đã là phần tế bào, trong khối óc tôi.
- Bé! Bé đấy ư? Bé đi lính hồi nào vậy? Trời ơi! gặp em, chị mừng quá.
Một thiếu phụ rời khỏi cánh tay ông đại úy Biệt Động quân, xà xuống bên tôi.
- Trời! Chị Hường. Lâu quá, không gặp chị. Chị khỏe không?
Tôi trân trối ngó chị. Nhan sắc tàn phai, năm xưa, đã phục hồi. Khuôn mặt sáng hơn. Đôi môi vươn cao, chín mọng. Chị siết chặt  tôi, gật đầu. Những giọt nước mắt rơi xuống, cảm động. Ông đại úy tiến tới, bắt tay tôi. Màu áo vằn vện của ông, khiến tôi nhớ đến anh tôi, cũng đang lăn mình trong chiến trận. Tới giờ, tôi vẫn chưa hiểu, tại sao anh tôi nỡ đành bỏ rơi chị Hường?
- Anh Khả, chồng chị. Chị theo ảnh về Biên Hòa sống, lâu rồi.
Chị Hường chỉ tay về ông lính, giới thiệu. Anh Khả hùng dũng, oai nghi với bộ quân phục. Anh trò chuyện cùng tôi, cười cợt như đã quen từ lâu. Sau đó, chúng tôi cũng chia tay. Chị Hường lại thút thít. Chị ôm vai tôi, không muốn rời. Mùi hương kỳ lạ năm xưa lại phả vào mũi tôi, khiến tôi xúc động. Những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống, rơi trên tóc chị.
Tôi trở lại Cà Mau, lần cuối, lúc chế độ cộng sản nhuộm đỏ miền nam. Trở lại thăm thằng em út đang lặn ngụp trong đời sống cơ hàn. Tiện thể, thăm bạn bè. Những đứa học chung lớp. Những đứa từng làm thơ, từng uống rượu nổi điên, trong những đêm hào sảng. Cũng muốn gặp lại chị Hường, xem đời sống chị ra sao, sau khi anh Khả gãy súng. Cà Mau, những năm đó, thảm thương. Dân số tăng nhanh. Cuộc sống bần hàn hơn xưa. Người ta tranh nhau kiếm sống. Tranh nhau buôn bán. Có nhà, tuôn hết những vật kỷ niệm trong gia đình ra đổi gạo, ăn qua ngày. Tôi tìm không gặp một thằng bạn nào. Dường như, cuộc sống khó khăn đã lôi tụi nó đi khắp nơi, bươn chải. Còn thằng em tôi, mua nợ một chiếc gắn máy cà tàng, chạy xe ôm, nuôi con hằng bữa. Nhưng tôi gặp chị Hường. Chị phất lên như diều gặp gió. Chị đang an hưởng trong cảnh lầu cao cửa rộng. Ba má chị, sau 30 tháng tư, trở về, là cán bộ cao cấp của phe bên kia. Ngày xưa, họ tung tin đi Sài Gòn làm thợ máy, nhằm che mắt thiên hạ. Tôi gặp chị không khó khăn. Vì nghe tin tôi về, chị vội vã tìm tôi.
Chị Hường chở tôi trên chiếc xe Honda đàn bà. Chị ghé nhiều chỗ. Mỗi chỗ, chị dừng lại lâu, cho tôi nhớ kỷ niệm. Tôi nhớ nhất cái quán má tôi. Những đêm giáp tết, trời lạnh tái tê, tôi và chị Hường ôm nhau ngủ, một cách hồn nhiên. Cái quán bây giờ không còn nữa. Mảnh đất đó đã bị người trong bưng, túa ra, chiếm mất rồi. Chạy loanh quanh một chập, chị Hường tấp vào một quán cà phê bên đường. Quán vắng khách. Những cái bàn lộ thiên, trải dài ngoài vườn. Không khí thiên nhiên, hợp với tâm hồn thôn dã của chúng tôi. Chị Hường chọn cái bàn sâu nhất, giữa hàng cây rậm rì, xanh mướt.
- Mấy năm trước, má rời Cà Mau, chị mất liên lạc với má luôn. Những năm sau này, chị tìm em khắp các trại tù miền nam, nhưng vô vọng. Bộ người ta đưa em ra bắc hả ?
- Không chị. Em bị nhốt ở miền đông. Rừng Xuyên Mộc.
Chị chăm chú nhìn tôi, thở dài.
- Anh Khả mất. Chị như người không có linh hồn. Buồn thật buồn em ạ!
Tôi giật mình. Người đại úy mà tôi chỉ gặp một lần đã mến phục. Mất rồi sao? Tôi nóng nảy.
- Ảnh mất lâu chưa? Lâu chưa?
- Ảnh tử trận. Trước tháng tư chỉ vài tuần.
Nói xong, chị đưa hai tay ôm đầu, vò tóc, nghẹn ngào. Tôi ngậm ngùi. Nhớ đến anh tôi. Anh tôi cũng vậy. Cũng thời gian đó, anh tôi mất tích ở đại lộ kinh hoàng, trong toán quân di tản về miền nam. Nhưng tôi không dám thở than điều này. Chẳng ích gì. Chỉ làm cho vết thương lòng chị Hường, vấy thêm đau nhức.
Chị Hường tiếp tục tức tưởi.
- Bây giờ, chị đã có chồng. Ba chị bắt, ép gả cho một ông cán bộ.
Tôi tròn xoe mắt. Chị lấy cán bộ? Thôi rồi, chị đã phản bội anh Khả, phản bội quê hương, đất nước. Nhất là, chị phản bội tấm lòng của em. Chị biết chưa? Tôi hét lớn. Nếu có thêm vài ngụm rượu, chắc chắn tôi sẽ nổi điên, đập phá tứ tung.
Chị Hường khóc rống lên. Tiếng khóc ai oán biết bao. Xót thương biết bao. Tiếng khóc làm tôi nguôi giận, hối hận, và tự trách mình sao quá đỗi hung tàn. Tôi lặng lẽ đứng dậy, đến bên chị Hường vuốt vai, vỗ về.
- Em xin lỗi chị. Giận quá, mất khôn. Chị biết không? Em căm thù giặc. Căm thù đến hơi thở cuối cùng.
Tôi chưa nỡ bỏ Cà Mau đi sớm. Vì thằng em đơn chiếc. Nó vừa nuôi con, vừa chạy xe ôm kiếm sống. Vợ nó, làm ăn xa. Lâu lâu mới thăm nhà một lần. Nó cần tôi ở lại đây, trông mấy đứa nhỏ, chừng tháng sau, mẹ chúng sẽ trở về. Thương em, tôi chấp nhận lời yêu cầu của nó. Cũng là dịp, tôi có thời gian tìm bạn, xem bạn có công việc nào giúp mình sinh sống không?
Một hôm, thằng em phóng xe về, la lớn.
- Chị Hường đang bị công an bắt kìa, anh Bé.
Tôi đang bới cơm cho con bé, nghe đến tên chị Hường, bỗng hoảng hốt, chạy ra.
- Sao bị bắt? Làm gì bị bắt?
- Chị cầm dao đâm chồng, khi ổng đang ngủ. Ớn quá!
Tôi nhào lên xe thằng em, đốc nó chạy nhanh đến nhà chị Hường.
Đám đông bao quanh căn nhà. Công An cố gắng đẩy dòng người hiếu kỳ sang một bên, lấy chỗ cho xe cộ chạy qua. Tôi lủi vào dòng người, cố chen ra phía trước, dáo dác tìm bóng chị Hường. Trong nhà chị, công an dày đặc. Họ đứng che lấp khoảng cửa, bít kín hiện trường để làm việc gì đó, với kẻ gây án. Thất vọng, tôi chỉ còn biết lắng nghe dư luận xầm xì.
- Nạn nhân được xe cứu thương chở đi rồi. Máu ra nhiều quá, tôi e khó sống.
- Giết được thằng nào hay thằng nấy. Ở đâu, về đây làm trời.
Nóng lòng quá, tôi khều một ông kế bên, hỏi nhỏ.
- Thủ phạm bị đưa đi chưa chú? Hay đang còn trong nhà?
- Chưa đưa đi đâu. Người ta còn điều tra mà.
Lát sau, đám công an đưa chị Hường ra xe. Lúc này, hai tay chị bị còng, bẻ quặt ra phía sau. Tôi cố vượt đám đông, tiến tới gần chị.
- Chị Hường!
Chị quay lại, thấy tôi. Ánh mắt bỗng trở nên nghiêm nghị, sắt đá và cương quyết. Đám công an lôi chị, vượt lên, đi thẳng về chiếc xe bít bùng. Nhưng tôi vẫn nghe rõ giọng chị, oang oang trong gió.
- Chị trả thù chồng. Nó giết anh Khả.
Phạm Hồng Ân