Sunday, March 31, 2019


                          Em và mùa Đông ( NT)


Cuộc tình lận đận (*)
( Nguyễn Đức Nhơn)

Con đường mòn từ tỉnh lộ 8 về nhà, Hương phải đi dọc theo bên ngoài hàng rào phía trước nhà tôi. Hương xinh đẹp mặn mà với mái tóc thề buông lơi óng ả. Tôi thầm yêu Hương nhưng vốn dĩ là một chàng trai quê mùa nhút nhát. Tôi không dám ngỏ lời yêu Hương. Nhưng không ngờ Hương cũng đã thầm yêu tôi. Mối tình song song này không biết đến bao giờ mới được nhập vào nhau. Nhưng rồi một hôm, tôi nhận được lệnh động viên vào Trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Tôi cứ tưởng mối tình giữa tôi và Hương đã đến ngày kết thúc. Nhưng không ngờ vào một ngày Chúa Nhật tôi được gọi ra gặp thân nhân. Khi đến khu tiếp tân, tôi ngạc nhiên sững sờ khi thấy Hương đang đứng nấp sau lưng em gái tôi. Hương cúi đầu e thẹn. Tôi bước tới nắm tay Hương hỏi:
- Dạo này em khỏe không?
Hương rưng rưng nước mắt trả lời:
- Dạ khỏe.
- Anh thấy em hơi gầy. Nhớ giữ gìn sức khỏe. Tôi đưa Hương và em gái tôi vào trong trại, chọn một bóng mát trải tấm nylon ba người ngồi hàn huyên tâm sự. Thời gian qua mau. Mới đó mà đã hết giờ thăm thân nhân. Tôi đưa Hương và em gái tôi ra về. Còn tôi một mình lủi thủi trở vào trại. Đêm đó tôi cứ trăn trở mãi, hình bóng Hương luôn hiện ra trong đầu tôi.
Sau khi mãn khóa tôi được điều về Sư Đoàn I BB. Với cuộc sống của một người lính chiến. Sinh mệnh bị đe dọa từng ngày. Tôi nhớ Hương và tôi cũng biết Hương nhớ tôi đến mức độ nào. Tội nghiệp Hương chỉ gần gũi tôi trong một thời gian ngắn rồi mỗi đứa một nơi, nỗi nhớ nhung tràn ngập trong lòng.
Cuộc chiến mỗi ngày một thêm ác liệt. Sư Đoàn tổ chức hành quân liên miên. Trong một trận đánh lớn kéo dài hai ngày hai đêm. Tôi bị thương trong trận đánh này. Tuy vết thương không nặng, nhưng nó làm tê liệt một bàn tay, không co giãn được. Hội đồng y khoa cho tôi được giải ngũ.
Ngày trở về Phan Thiết, em gái tôi và Hương lên phi trường đón tôi. Hương hỏi:
- Anh bị thương có sao không?
- Không nặng lắm nhưng vết thương đã làm tê liệt bàn tay phải của anh nên được giải ngũ.
Em gái tôi nói:
- Hai người lo nói chuyện, bộ quên mất con nhỏ này rồi sao?
Hương nói nhanh:
- Ồ! Chị xin lỗi em nhé.
- Đùa thôi. Để em đi trước nhường cái không gian đầy lãng mạn này cho hai người tình tự. Em gái tôi vừa nói vừa đi nhanh, phút chốc bóng dáng của nó đã khuất vào một khúc quanh của con đường dốc từ phi trường chạy về thị xã.

Mối tình giữa tôi và Hương kéo dài không được bao lâu thì một chuyện đau lòng xảy ra. Gia đình Hương ép nàng thành hôn với một người đàn ông góa vợ giàu có, tuổi tác đáng bậc cha chú của mình. Hương là một người con có hiếu, không dám cãi lời cha mẹ. Nàng chỉ biết khóc. Trong thời gian chờ đến ngày tốt để tổ chức lễ cưới. Ba Hương cấm ngặt, không cho nàng gặp tôi. Trước nghịch cảnh đau buồn này, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất là bỏ nhà ra đi. Ba má tôi không ngăn cản quyết định này của tôi. Ba tôi nói:
- Con đã là người trưởng thành. Mọi việc tự con quyết định lấy. Ba má không giúp được gì cho con đâu. Trước quyết định ra đi, tôi muốn gặp Hương một lần cuối. Không ngờ lần gặp gỡ này khiến Hương bị ba má nàng nhốt chặt trong phòng, Hương chỉ còn biết khóc thầm trong đêm. Không ngờ nỗi đau buồn này đã khiến Hương lâm vào một trận bệnh mà gia đình chạy chữa thuốc thang thế nào cũng không khỏi. Trong suốt thời gian nằm bệnh, Hương không nói một lời. Hết khóc rồi lại ngủ. Bệnh tình của Hương mỗi ngày một trầm trọng. Hơn ai hết, ba Hương là người biết rõ nguyên nhân gây ra chứng bệnh này của Hương. Ông nghĩ chỉ còn cách đến nhờ ba tôi giúp đỡ, gọi tôi về gặp nàng. 
***
Nhìn vẻ hốt hoảng của đứa em gái, tôi biết ở nhà đã xảy ra chuyên.
- Nhanh lên, chị Hương bệnh nặng.
Tôi hỏi:
- Hương bị bệnh gì vậy?
- Nhanh lên. Về nhà sẽ biết.
Em gái tôi trả lời cộc lốc, khác hẳn cử chỉ thường ngày của nó. Tôi mặc nhanh quần áo rồi ra xe chạy một mạch về Phan Thiết. Khi đến nơi, tôi dựng xe bên ngoài, không thèm chào hỏi ai hết. Tôi bước nhanh vào phòng. Hương nhìn tôi như nhìn một người xa lạ. Tôi ngồi xuống nắm tay Hương nói:
- Hương, anh về với em rồi nè. Em giỏi quá. Vài ngày nữa em sẽ hết bệnh. Anh chở em đi dạo mát, chịu không?
Hương nhìn đăm đăm vào mặt tôi, rồi hai dòng nước mắt trào ra, tôi chết điếng trong lòng…
Suốt mấy ngày ngồi bên Hương, lòng tôi đau như dao cắt. Đến ngày thứ năm, tôi ngồi thiu thiu ngủ. Bỗng có cái gì động đậy trên lòng bàn tay. Tôi giật mình nhìn xuống. Cả người tôi như muốn bay bổng lên mây. Bàn tay Hương đang nắm chặt bàn tay tôi.
***
Một hôm, người đàn ông mà ba Hương định gả nàng cho lão đến nhà. Với vẻ mặt vênh váo, chẳng coi ai ra gì, ông ta nói lớn:
- Đám cưới không thành ông phải trả lại tiền cho tôi chứ.
Ba Hương nói:
- Ông Vạn à! Xin ông nán lại cho tôi ít bữa. Khi kiếm được tiền tôi sẽ trả cho ông ngay.
- Ông làm sao để kiếm được tiền. Ông phải ép con gái ông làm vợ tôi, nếu không thì tôi sẽ làm lớn chuyện đó.
- Tôi xin ông mà ông Vạn. Lần này nhất định tôi sẽ kiếm được tiền. Nếu trong vòng một tháng mà tôi không kiếm được tiền để trả cho ông thì ông muốn gì tôi cũng chịu.
- Ông nhớ đó, trong vòng một tháng. Nếu không trả tiền thì phải bắt con nhỏ đó làm vợ tôi. Ông nghe rõ chưa?
Ông Vạn lấy cây gậy đập lên bàn mấy cái thị uy rồi bỏ ra về. Hương vội kéo tôi núp vào một góc nhà bếp. Tôi như từ trên trời rớt xuống, không biết nội tình của nhà Hương thế nào, nhưng theo lời hăm dọa của ông Vạn tôi biết rõ nhà Hương nợ ông Vạn một số tiền rất lớn không cách nào trả nổi. Cũng vì món nợ này mà ba Hương phải chấp nhận điều kiện gả Hương cho lão để trừ nợ.
Hương kéo tôi đến chiếc xe nói:
- Anh chở em về nhà anh được không?
- Được em.
- Em không muốn giấu chuyện này với hai bác. Em sẽ nói với hai bác những gì mà em đã nghe lúc nẩy. Cuộc hôn nhân của chúng ta để hai bác định đoạt.
- Em đừng lo, anh tin là việc gì cũng có cách giải quyết mà.
***
Tôi dìu Hương vào nhà. Ba tôi nói:
- Hương ngồi xuống đây với bác đi con.
Hương bật khóc nức nở. Ba má tôi vô cùng ngạc nhiên. Má tôi bước tới dìu Hương vào phòng. Bà đưa chiếc khăn tay cho Hương bảo:
- Con lau nước mắt đi. Chuyện quan trọng đến đâu cũng có cách giải quyết mà. Con ăn gì chưa? Để bác đi lấy đồ ăn cho con nghe. Hương nói:
- Dạ con không đói đâu bác. Khi nào đói con sẽ ăn.
Má tôi nói:
- Con vừa khỏi bệnh không nên xúc động như vậy. Con hãy nghe lời bác. Dù trời sập xuống cũng không sợ, thì còn sợ cái gì. Con đừng lo, dù gì cũng còn hai bác đây mà. Thôi con nghỉ cho khỏe. Có việc gì, hai bác sẽ lo cho con.
Má tôi dặn dò Hương một lần nữa rồi ra khỏi phòng. Ngoài phòng khách ba tôi và tôi chỉ nói về tình hình kinh tế, chính trị đã diễn ra trong tuần. Hình như ba tôi không muốn bàn đến chuyện gia đình vì nghĩ là Hương đang gặp phải một việc gì đó vô cùng quan trọng. Không nên nói chuyện với Hương trong lúc này.
Thỉnh thoảng tôi vào phòng trông chừng Hương. Khi Hương thức giấc, nàng gượng ngồi dậy. Thân hình thon nhỏ của Hương, đi ngoài đồng gió thổi muốn bay thì trước một thách thức lớn lao thế này, liệu nàng còn đứng vững được không?!!! Tôi vô cùng lo lắng. Tôi nói:
- Hương à, ngoài anh ra, còn có ba má anh. Chắc chắn hai ông bà không khoanh tay đứng nhìn sự việc này đâu. Mắc nợ thì để từ từ cho người ta trả. Nếu trả một lần không được thì trả nhiều lần. Tại sao thừa cơ hội áp bức một đứa con gái đáng con mình về làm vợ. Tại sao trên đời này lại có một người vô lương tâm đến vậy.
Hương nằm xuống. với cặp mắt thất thần, nàng nhìn đăm đăm lên trần nhà. Từ ngày hôm qua đến giờ, Hương nghĩ nát óc vẫn không tìm ra nguyên nhân gì mà ba nàng mắc nợ người ta đến nổi phải đem con mình đi thế nợ!...
***
Đã mấy ngày trời, Ba Hương dọ hỏi khắp nơi mà vẫn không có tin tức gì về nàng (Dĩ nhiên là vậy. Hương đã lén về nhà tôi ở thì làm sao mà tìm ra được!).

Một hôm Ba Hương đến nhà tôi. Ba tôi biết mục đính của ông đến để làm gì. Nhưng ông giả vờ ngạc nhiên hỏi:
- Ồ, ngọn gió nào đưa ông đến đây vậy?
- Không giấu gì anh. Con Hương nhà tôi đã mất tích mấy ngày nay. Tôi tìm nó khắp nơi mà vẫn không có tin tức gì của nó hết. Tôi đến đây nhờ anh có biết nó ở đâu xin chỉ giùm. Ba tôi trả lời:
- Tôi thì không biết. Phiền anh ngồi chờ một chút để tôi vào trong hỏi bà nhà tôi có gặp nó ở đâu không rồi sẽ ra cho anh biết.
- Dạ cám ơn anh.
Ba tôi vào trong bảo má tôi, tôi và em gái tôi vào phòng Hương, hỏi nhỏ:
- Ba con Hương đến tìm nó, bây giờ tính sao?
Hương nói:
- Xin bác đừng cho ba con biết là con đang ở đây.
Tôi bảo mọi người đừng nói chuyện lớn tiếng rồi quay trở ra trả lời cho ba Hương biết là cả nhà không ai thấy nó ở đâu cả. Ba Hương nói lời cám ơn rồi ra về. Ba tôi trở vào nhìn mọi người nói:
- Hú hồn. Chút xíu nữa là tôi đứng tim luôn.
- Ông giỏi lắm. Nếu không có ông chắc tụi này làm bể mánh là cái chắc.
***
Ba tôi là một người hiền lành, vui tính hay giúp đỡ moi người nên cả làng ai cũng mến. Vì vậy mà tiếng nói của ba tôi thường được mọi người trong làng nghe theo. Sáng ngày hôm sau ba tôi gọi mọi người ra phòng khách, kể cả Hương. Ông nói:
- Đêm vừa rồi tôi suy nghĩ, việc của hai đứa nó phải lo cho sớm. Ngày mai tôi sẽ gặp ông Lành để bàn chuyện. Con Hương cứ ở đây chờ xong việc rồi sẽ về. Tuy ba tôi nói là bàn chuyện. Nhưng thực ra ông đã tính toán cả rồi.
***
Ông Lành bước vào nhà với một niềm vui thoáng hiện trong lòng vì ông nghĩ là ba tôi đã biết Hương hiện giờ đang ở đâu. Sau một vài câu chuyện xã giao thường ngày, ba tôi nói thẳng vào  đề:
- Chắc anh đoán được mục đích tôi mời anh đến đây là để bàn về việc gì rồi chứ. Bây giờ tôi xin nói thẳng, anh cho tôi biết cặn kẽ về vấn đề khó khăn mà anh đang gặp phải. Tôi hứa sẽ giúp anh đến cùng.
Ông Lành thở dài nói:
- Một năm trước đây, tôi là một thành viên bất đắc dĩ của một tổ chức buôn lậu. Một hôm, khi tôi đang lui cui chăm bón vườn cải của tôi ở bên mé rừng thì có một người đàn ông bịt mặt bước tới gí súng vào lưng tôi nói:
- Đừng quay lại nếu không tao nổ súng. Trước tình cảnh này tôi đành nghe theo nó.
Sau đó cứ vài ba tháng chúng lại giở cái trò này một lần. Những lần diễn ra đều có giọng nói khác nhau, có cả giọng đàn bà. Hình như họ đang thử thách tôi. Rồi một hôm trên con đường vắng tôi lại bị một người đàn bà bịt mặt dùng súng uy hiếp. Ả đưa cho tôi một miếng giấy rồi nói:
- Mày cầm miếng giấy này vào rừng mở ra xem. Mày phải làm đúng theo những chỉ dẫn trong đó và nhớ thật kỹ, không được làm sai bất cứ một chi tiết nào. Nếu mày làm điều gì bất lợi cho tổ chức thì mày biết hậu quả như thế nào rồi chứ. À, mầy còn một đứa con gái mà. Nó vô tôi đấy...
Tôi không biết người đứng đầu tổ chức này là ai, cũng không biết người phụ trách đưa hàng cho tôi và tôi cũng không rõ tôi đang chở loại hàng gì. Họ hăm dọa tôi đủ điều. Khi có hàng họ chỉ dùng điện thoại bảo tôi đến chỗ lấy hàng và chở đến một địa điểm bí mật trong thành phố. Tôi biết rất rõ từ lúc lấy hàng cho đến chỗ xuống hàng luôn có người theo dõi tôi. Nếu tôi không làm đúng theo lời chỉ dẫn của họ thì tôi sẽ bị họ khử tức khắc và cả con Hương cũng sẽ bị họa lây. Phần tôi không nói gì nhưng sinh mạng của con Hương thì dù chết tôi cũng tìm cách bảo vệ nó.
Đây là lần đầu tiên tôi làm theo sự hướng dẫn của tổ chức này. Từ đó lâu lâu tôi lại phải làm một lần cho bọn chúng. Lần sau cùng cách đây khoảng một năm, tôi phải đi gặp bọn chúng. Lần này chúng không bắt tôi đi tải hàng mà chúng bắt tôi phải đưa cho chúng một số tiền lớn. Nếu không chúng sẽ khử tôi và cả con Hương nữa. Tôi thì không sợ gì. Bất quá là liều mạng với chúng một phen. Nhưng khi nghĩ tới con Hương thì tôi không còn lòng dạ nào làm điều gì bất lợi cho nó. Cuối cùng tôi quyết định đến nhà ông Vạn vay mười ngàn đồng trong thời hạn một năm. Sau một năm nếu không trả được cả vốn lẫn lời thì phải gả con Hương cho hắn. Vì để giữ tính mệnh cho con Hương nên tôi đành chấp nhận điều kiện này, lấy mười ngàn đồng để giao cho bọn buôn lậu. 
Ba tôi hỏi:
- Vậy món nợ hiện tại cả vốn lẫn lời là bao nhiêu?
- Dạ hai chục ngàn.
Ba tôi suy nghĩ một chút rồi nói:
- Thôi được. Tôi sẽ trả giùm anh món nợ này và coi như đây là quà lễ cầu hôn con Hương cho thằng con tôi, chắc anh không phải đối chứ. Ông Lành mừng húm nói:
- Nhưng con Hương nhà tôi còn mất tích. Điều này không biết có thuận lợi cho cuộc hôn nhân của hai đứa nó không?
- Anh để tôi lo.
Ba tôi lớn tiếng gọi:
- Cả nhà ra hết đây, kể cả con Hương nữa.
Ba Hương giật nảy người khi thấy Hương theo mấy người nhà bước ra. Nét mặt ông bừng lên một niền vui không thể tả xiết. Ông nói:
- Con nhỏ này quá quắt thật.
Hương nói:
- Con xin lỗi Ba. 
- Con không có lỗi gì đâu. Hãy ở lại nhà hai bác chơi. Khi nào về cũng được. 
Ba Hương nói tiếp:
Muôn vàn cám ơn anh chị. Nếu không có anh chị giúp, tôi không biết phải làm thế nào...

Temple ngày 27 tháng 6 năm 2018 
Nguyễn Đức Nhơn
(*) trích trong Hội Quán Trầm Hương.

Tuesday, March 26, 2019



 Hoa nở trong vườn mùa Xuân..                                      
                        















Friday, March 22, 2019





                          Trả Lại Em Yêu
                          Nhạc; Phạm Duy
                          Ca sĩ : Thái Thanh

Sài Gòn.. Những Khung Trời Kỷ Niệm.
( Nguyễn Khôi Việt )


Có người bạn viết trong comment của anh ta: Các bạn trẻ ngày nay chắc chắn không biết Sài Gòn Thứ Bảy ngày xưa ra sao đâu. Câu nói này chợt gợi ra trong tôi bao nhiêu là kỷ niệm.
Khoảng chừng 3 giờ chiều. Khi mây trắng, mây xanh trở về thành phố, khi gió chiều bắt đầu thổi mát trên các đường phố chính như Tự Do, Nguyễn Huệ, Pasteur. Những quán kem nhìn ra vỉa hè như Mai Hương, Phương Lan, Cafeteria ( hình như khai trương năm 70, 71 không nhớ rõ, trong quán là một là một hình ảnh rừng Thu rất đẹp chung quanh tường) trên đường Lê Lợi (bây giờ không biết bị đổi tên là gì?) đông nghẹt người ngồi ăn kem ,đồng thời để "rửa mắt" dõi theo những giai nhân thả bộ theo hè phố . Có thể thấy khá nhiều sinh viên sĩ quan Thủ Đức, hoặc Không Quân trang trọng trong những bộ đồ phép bên cạnh người yêu. Không phải ngẫu nhiên mà có câu "gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè, và gió hôn tóc thề..." Sài Gòn về chiều rất mát mẻ, đôi khi lạnh vào buổi tối vì gió dưới bến Bạch Đằng thổi lên. Tiếng mời chào từ những người bán hàng, tiếng nhạc vọng ra từ các cửa hiệu hai bên đường. Âm thanh, tiếng hát đó không bao giờ có thể quên. Đường phố nhiều khi đông người, nhưng bình yên, ít khi có nạn giựt đồ cướp bóc như sau này. Ngay cả khi bạn dạo phố vào ban đêm
Về Sài Gòn dạo chơi chiều thứ Bảy với người yêu là một sự hạnh phúc rất thi vị. Ngoài con đường Duy Tân cây dài bóng mát mà hầu như ai trong chúng ta cũng biết trong Trả lại em yêu của Phạm Duy, còn có đường Nguyễn Du đầy lá Me bay. Nơi chốn rất bình yên, đẹp đẽ và lãng mạn để bạn có thể "ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới" như lời thơ của thầy Thanh Tâm Tuyền. Nhưng nếu vắng nàng thì ta giả bộ làm "người hùng cô đơn" đi ngắm hạnh phúc của thiên hạ. Hoặc tìm một bóng hồng nào cũng cô đơn như mình. Đêm xuống thì đã có những nơi rất xứng đáng để vào. Đêm Màu Hồng nghe Duy Trác, Sĩ Phú, ban tam ca Đông Phương, Queen Bee với Lệ Thu, đôi khi có Carol Kim, phòng trà Tự Do nghe Khánh Ly hát, Chez Jo Marcel, vủ trường Olympia, hoặc hội quán Tre nơi có Lê Uyên và Phương tha thiết với "Vũng Lầy của chúng ta" hoặc "Uống nước bên bờ suối. . Nếu muốn đánh dấu một ngày về thăm bằng bữa ăn tối trịnh trọng với người yêu thì vào nhà hàng La Cave (cái Hầm) nơi có những món ăn Pháp rất đặc biệt, với những người hầu bàn vô cùng lịch sự và chu đáo.
Và cứ thế. Sài Gòn êm đềm trôi. Tới ngày 30-4-1975 thì chấm dứt. Tổ Quốc sang một trang đầy đau khổ nhục nhằn.
( Viết từ Khôi Việt )

Friday, March 15, 2019


                   Nơi em về trời xanh không em..

Trời Xanh Không Em
( Nguyễn Vĩnh Long)

Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường trước mặt với đàn con nhỏ dại. Con mất cha như nhà mất nóc, chị em tôi như bầy chim tan tác lạc đàn. Dòng đời vẫn lặng lẽ trôi mặc cho bao biến cải đổi dời. Mẹ con tôi phải cùng dựng lại nóc, mà từ ngày xưa cuộc chiến chinh nào cũng đã đưa những người mẹ trở thành “phụ thân”. Gom hết tiền dành dụm cộng với tiền tử, mẹ tôi bán luôn căn nhà đầy hình ảnh kỷ niệm cha tôi, để sang lại quán cơm bình dân, đối diện bến xe đò thị xã. Phía sau quán cơm Thanh Vị, mẹ tôi lấy tên thị xã đảo ngược lại, bà dựng thêm hai chái nhà cho mấy mẹ con cùng ở. Hai bên nội, ngoại đều nhiều lần đề nghị đem vài đứa về nuôi, đỡ tay, nhưng bà một mực từ chối. Tôi thương mẹ vô cùng. Là con gái lớn, tôi cũng nhiều lần xin nghỉ học giúp mẹ một thời gian, khi ổn định đâu vào đó, tôi trở lại trường cũng không muộn. Mẹ tôi vừa khóc vừa mắng tôi một trận nên thân. Từ đó, tôi không dám nhắc đến nữa, mà cố gắng sau buổi học dồn hết tâm sức đở đần với mẹ cho tiệm cơm và chăm sóc đám em. Đời sống mẹ con tôi cứ vậy lặng lẽ trôi qua như dòng kinh xáng chảy quanh thị xã, phía sau nhà.

Hơn năm sau, quán cơm mẹ tôi khách ăn mườn mượp phải mở rộng thêm gần hết mặt lộ. Khách quen thuộc hằng ngày, phần đông là đám tài xế và phụ lơ. Còn lại là hành khách tứ xứ hoặc những người lính trẻ một lần dừng quân. Họ đến và đi như những cơn gió nổi, không mấy lần trở lại. Có những hôm đường bị đấp “mô”, hay lỡ chuyến xe cuối cùng, vài người khách hành vào quán hỏi mẹ tôi xin được mướn chiếc giường ngủ tạm qua đêm. Mẹ tôi nghĩ ngay đến chuyện biến hai chái phía sau thành nhà trọ cho khách lỡ đường. Cũng đã khá giả nên mẹ tôi mướn căn nhà rộng rãi gần nhà máy điện, cho chị em tôi có đời sống riêng biệt, xa khỏi chỗ bán buôn ồn ào. Công việc phụ giúp mẹ ở quán cơm cũng giảm dần vì mẹ đã có nhiều người bà con từ dưới quê lên làm phụ. Họ vừa tránh được cuộc chiến tranh đang càng ngày khốc liệt vừa kiếm được chỗ ăn, việc làm. Mẹ tôi sau thời gian lao đao, khốn khổ nay đã được chút bình yên. Bà tươi tỉnh và duyên dáng hơn xưa. Có nhiều người đàn ông cũng đến ve vãn, nhưng chừng như bà không mấy quan tâm bởi đàn con bốn đứa. Năm đó tôi cũng vừa mười bảy, tuổi dậy thì rực rỡ của thời con gái. Ngực tôi vun tròn, mắt long lanh, môi luôn mọng đỏ và biết ngượng ngùng trước những đôi mắt của đám con trai cùng lớp, những người lính trẻ mỗI lần tôi đi ngang qua tiểu đoàn. Đêm tôi trằn trọc khó ngủ, nằm lắng nghe tiếng súng vọng xa xa quen thuộc, mộng mị vu vơ. Còn ngược lại ban ngày, tôi cứ nằm đâu là ngủ đó, như con mèo tam thể của bà Năm chủ nhà.
Những chiếc lồng đèn xanh đỏ đủ loại bắt đầu treo bán khắp dãy chợ và trường tổ chức chương trình văn nghệ trung thu yểm trợ tiền phương. Nhờ cao ráo, sáng sủa tôi được tuyển vào ban hợp ca và ban vũ của trường. Trong một buổi tập hát, tôi quen Lộc. Anh học 12, trên tôi một lớp và trưởng khối báo chí trường. Chạm ánh mắt anh lần đầu tôi đã linh cảm một quan hệ tình cảm gì đó giữa tôi và anh. Lộc không đẹp trai, anh da ngăm ngăm, dáng người chắc hơi thấp nhưng anh có đôi mắt thật sáng và thông minh. Với anh, trong ánh mắt sáng đó, tôi biết hình ảnh mình đã chiếm ngự mỗi nỗi bối rối, ngỡ ngàng. Ngày nào, Lộc cũng đi ngang qua lớp tôi đôi lần. Để nhìn thấy tôi và được tôi nhìn đáp lại. Chỉ vậy mà đêm nào tôi cũng nằm mơ tưởng đến anh, muốn đêm qua nhanh để ngày mai tôi được anh liếc nhìn bối rối. Lộc ở trọ học nhà bà con gần ngõ nhà tôi, cuối bờ kinh xáng. Tôi d biết gia đình anh ở Hoà Hưng, cách thị xã cả nửa ngày đò. Cho đến một buổi tan học, vừa rẽ vào ngõ, tôi đã thấy anh đứng đợi tự bao giờ. Anh trao bức thư và nói vội, “Gửi cho Loan..!”. Tôi chưa kịp phản ứng, tim đập thình thịch thì anh đã rảo bước đi nhanh. Về nhà tôi không kịp thay đồ, chui ngay vào hầm “ chảng-xê” để đọc thư anh. Tôi đọc đi đọc lại thư Lộc nhiều lần, gần như thuộc lòng mà vẫn chưa thấy chán. Vài ngày sau tôi trả lời thư anh và cuộc tình bắt đầu từ đó.
Ông là người khách thương hồ tầm thước, tuổi chừng năm mươi. Một tháng đôi lần, ông ghé giao và nhận hàng đặt cho lần ghé tới. Nghe nói ông gốc gác ở miệt Tân Châu, Hồng Ngự. Trong đêm một trái pháo rơi giữa nhà, cả gia đình đều chết thảm thiết, trừ ông. Đến nay ông vẫn chưa hiểu sao mình sống sót với bao mảnh đạn phá nát bả vai, phải mổ nhiều lần mới lấy hết miểng. Từ đó ông bỏ xứ ra đi, sống lênh đênh trên chiếc ghe bầu mà ông gọi là nhà. Chú Bảy, tên ông, sống đời trên chiếc ghe buôn, xuôi ngược khắp mặt nước sông hồ của miền châu thổ. Dạo sau nầy, ông ghé quán mẹ tôi thường xuyên hơn và lần nào ngoài hàng cho quán, ông cũng có những món quà nhỏ, là lạ phương xa cho chị em tôi. Khi thì gói chuối ngào Hồng Ngự, khi thì chục cam miệt Cái Bè và lắm lúc cả chiếc kẹp tóc đồi mồi tận chợ Hà Tiên. Để rồi có nhiều hôm, ông dừng ghe bên bờ kinh hẳn vài hôm, phía sau quán mẹ tôi. Ông giúp mẹ tôi dựng lại một vách mái loang lổ, đóng lại vài chiếc bàn, cái ghế lung lay hay lót lại cái sàn nước đã lâu ngày gạch bể, trơn trợt. Mẹ tôi nhiều lần đề nghị ông ngủ lại phía sau nhà trọ. Ông đều từ chối. Chiếc ghe bầu là căn nhà trọ thân thương, duy nhất của ông. Nên không như những người đàn ông khác, mẹ tôi tỏ vẻ trìu mến, quyến luyến ông ra mặt. Mấy chị em tôi cũng quấn quít ông, nhất là tôi, không phải vì mấy món quà nhỏ phương xa, mà là những đêm ngồi nghe ông kể chuyện sông hồ.
– Nược, là một loài cá nước ngọt, sống từng đôi và rất tinh khôn. Cá nược có nhiều ở sông Cái lớn, nhất là những khúc sông quanh quẩn cù lao. Chúng thường xuất hiện lúc trời vừa rạng hừng đông, từng đôi lộI đua theo những chuyến đò. Chú đã từng nghe kể lại tính thủy chung của loài cá tinh khôn nầy. Có người đánh lưới cá ở miệt Cái Bè, vô tình giết chết con cá nược đực. Con cái chờ đợi trả thù, dìm chìm ghe, giết chết người đánh cá. Sau đó nó tự lao mình lên bãi đất cồn, nằm chết khô trên cạn. Dân làng biết chuyện, cúng đàn giải oan cho người chết và lập miếu thờ đôi cá nược trên cù lao… Ngày nay giống cá nầy gần như mất dạng. Bom đạn, xe tăng, tàu chiến đã càng quét mọi sự sống, an bình của vùng đồng bằng sông nước. Chiến tranh không chỉ tiêu hủy con người mà cả thiên nhiên, cầm thú…
 " Thôi khuya quá rồi, mấy đứa đi ngủ, mai còn đi học. Mẹ mấy đứa lại rầy rà chú nữa"
Tôi và mấy đứa em còn đang chần chừ tiếc rẻ thì chú Bảy đã đứng dậy và đi ra ghe bầu đậu bến ở bờ kinh xáng. Cũng kịp lúc mẹ tôi vừa về, hối chị em tôi chuẩn bị đi ngủ. Như thường lệ, tôi dành ngủ một mình trên nấp hầm “chảng-xê”. Tôi nằm thao thức và nhớ Lộc vô cùng. Sáng nay anh gởi tặng tôi hai tập nhạc, Như Cánh Vạc Bay và Ca Khúc Da Vàng, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Anh đã giữ tay tôi thật lâu khi trao tập nhạc. Tôi xúc động run cả người và chực muốn ngã vào vòng tay anh say đắm. Tôi sẵn sàng, nhưng anh thì vẫn chưa tiến xa hơn trong một tầm tay nắm. Hơi ấm lòng tay anh vẫn còn vương vấn tay tôi. Đôi mắt sáng, tình tứ của anh vẫn là tất cả giấc mơ tôi bao đêm dài trằn trọc.
Tôi chợt giật mình thức giấc với tiếng động trong đêm. Không biết tôi đã rơi vào giấc ngủ chập chờn nầy tự bao giờ. Tôi bàng hoàng lắng nghe tiếng thở hổn hển của người đàn ông. Đêm vắng lặng, tiếng thở lúc một rõ, dồn dập vọng lại cùng âm thanh thịt da, vạt giường chạm lẫn vào nhau… Rồi tất cả trở lại lặng im. Tiếng xột xoạt của quần áo, tiếng trở mình khe kh từ phía ngoài giường ngủ mẹ tôi. Tôi tê cứng cả người, mẹ tôi ngoại tình, ăn ngủ, làm tình với người xa lạ nào đó? Mà không, bà đã mãn tang từ lâu, sao gọi ngoại tình. Nhưng người kia là ai? Nghiêng mình, tôi cố lắng nghe những tiếng thì thầm từ phía giường của mẹ, chỉ cách tấm vách ngăn mong manh. Tiếng nấc nhè nhẹ của mẹ chợt vang lên. Chuyện gì xảy ra cho mẹ. Mẹ tôi đã khóc quá nhiều rồi cho cuộc đời nầy, tôi không muốn bà phải khóc nữa. Nếu phải thấy bà khóc thì đó là những giọt nước mắt hạnh phúc trên khuôn mặt bà… Tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ nhỏ dần rồi tắt lịm. Lúc sau là tiếng chân và tiếng cửa mở kèn kẹt trước nhà. Người đàn ông đó đã đi xa, để lại đâu đây tiếng thở dài của mẹ. Tôi úp mặt vào gối, cố xua đuổi chung quanh những việc đã xảy ra. Trăn trở, tôi xoay xở người tìm tư thế thoải mái, cố nhắm mắt tìm giấc ngũ… Đêm đó, trong giấc mơ chập chờn còn lại, tôi thấy Lộc hôn lên môi, ngực mình…
Buổi chiều trải chiếc thảm vàng nhạt xuôi dòng kinh xáng. Tôi nén vu vơ vài mảnh đất khô cứng xuống bờ kinh. Hai đứa vẫn ngồi yên lặng, đeo đuổI những ý nghĩ riêng tư. Lộc báo tôi hay ngày mai anh sẽ đi xa như bao thanh niên khác trong thị xã. Từng đợt nối tiếp nhau ra đi, để rồi sẽ vĩnh viễn không trở về với cuộc sống và nỗi thương nhớ quặn lòng của người ở lại. Nước mắt cứ tiếp tục ứa tràn mỗI lần tôi nghĩ đến những ngày sắp tới không có Lộc trong thị xã bé nhỏ nầy. Tôi kh liếc nhìn khuôn mặt đăm chiêu của Lộc, không hiểu anh đang nghĩ gì và có mang tình tôi trong đó.
– Rồi một ngày Loan sẽ hiểu. Ngày đó, chắc gì Loan còn nhớ đến Lộc… Nhưng thôi, Loan hãy nhìn dòng kinh. Đẹp quá phải không Loan. Biết bao nhiêu đổi dời, tang thương dòng kinh xáng nầy vẫn sớm chiều lớn, cạn.
Tiếng Lộc trầm buồn, không như những lúc ôm đàn hát, “Người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương nên yêu người yếu kém / Người con gái ngồi mơ thanh bình yêu quê hương như đã yêu mình…”, trong những đêm lửa trại. Tôi muốn nói với Lộc thật nhiều. Rằng mãi mãi, tôi sẽ không bao giờ quên Lộc. Rằng tôi yêu Lộc thiết tha hơn cả thị xã nầy yêu mến dòng kinh xáng Sà-No. Nhưng, ngôn ngữ chừng như đang dãy chết trong tôi. Đầu tôi nghĩ mà miệng lưi tôi đông cứng trơ trơ. Tôi đành chỉ nhìn bâng quơ những chiếc ghe xuôi ngược trên dòng kinh, mà nghe lòng mình thổn thức.
– Loan hứa chờ Lộc trở về, nghen Loan. Chắc chắn Lộc sẽ trở về với thị xã, với Loan. Ngày đó quê hương sẽ không còn đạn bom, chết chóc và sẽ không còn những chia ly trong mỗi cuộc đời. Con ngườI sẽ nối thành vòng tay lớn của yêu thương, của lòng tin và hy vọng…
Tôi lắng nghe từng lời anh như một tín đồ ngoan đạo. Lộc còn nói nhiều, rất nhiều về quê hương, con người và tình yêu rộng lớn. Nhiều lúc tôi không hiểu anh nói gì, nhưng cần chi, tôi chỉ muốn nghe giọng anh nói. Tôi chỉ muốn yêu anh và được anh đáp lại tình tôi. Những điều to lớn khác của anh, tôi không cần hiểu. Với tôi chung quanh anh là ánh sáng, là hào quang của tình yêu và mơ ước. Lộc ơi, Loan sợ những cuộc chia ly, những lời tiễn biệt. Đừng nói đến ngày mai nếu mình không gặp lại, không có nhau. Trong tình yêu của anh, Loan chỉ là con chim nhỏ đang tập chuyền cành, đừng để em cô đơn giữa bầu trời quá rộng… Lộc quay sang nhìn tôi ngây dại và nắm tay tôi, xiết nhẹ. Tôi nghe tim mình thổn thức từng cơn. Lộc chợt kéo mạnh tôi ngã vào lòng anh, khép chặt vòng tay. Khuôn mặt tôi và anh chỉ cách trong hơi thở. Tôi khép mắt như một phản xạ tự nhiên. Đôi môi Lộc lướt nhẹ trên mũi, dọc má và gắn chặt bờ môi tôi chờ đợi. Tôi chưa biết hôn trả lại thế nào chỉ biết đầu lưi tôi tê dại trong nụ hôn anh mãnh liệt. Chung quanh như sụp đỗ dưới chân, tối tăm mê muội, khi bàn tay tham lam của Lộc ngừng trên bờ ngực tôi…
2.
Ngọn đèn chong soi bóng dì Út lùi dần, mờ nhạt trên bờ kinh. Tiếng máy ghe dượng Bảy khàn đục, vỡ tan từng tiếng vọng chạy dọc đôi bờ. Đêm cuối tháng Hai vằng vặc và se sắt lạnh. Cuộc chia tay cuối cùng với dì Út thật lặng lẽ, thoáng chốc. Tất cả những điều cần nói chúng tôi đã nói hết trong những tháng ngày khốn khổ trôi qua. Phiá sau ghe, bập bùng trong đốm lửa trên môi là khuôn mặt thẩn thờ, nghiêm trọng của dượng Bảy. Chưa bao giờ tôi thấy mến phục ông như lúc nầy. Ông đã đem lại tất cả niềm vui, sự sống và bao hy vọng cho gia đình mẹ con tôi.
… Cuộc đổi đời năm bảy lăm, một lần nữa đưa gia đình tôi vào ngõ ngoặt mới. Quán cơm đóng cửa, mẹ con tôi sống thấp thổn từng ngày trong chiến dịch giảm dân và hồi hương những gia đình “ngụy” không phải sinh quán tại thị xã. Gia đình tôi nằm trong diện nầy. Mà không ở trong diện nầy thì gia đình tôi cũng không sống nổi với đám chính quyền thị xã. Con côi mẹ góa, thành phần tiểu thương là mục tiêu đấu tranh “giai cấp” của chính quyền mới. Công an khu vực lãng vãng trước nhà, trường học cứ bắt phải khai lý lịch mỗi học kỳ. Con cái lần lượt bỏ học, mẹ tôi bán dần đồ đạt trong nhà sống cho qua ngày đoạn tháng. Nước chảy đá mòn, chẳng bao lâu nhà cửa trống trơn, chúng tôi chỉ nhìn nhau rồi nhìn mẹ chờ đợi ngày tình nguyện đi vùng kinh tế mới. Mẹ con còn đang hốt hoảng, thì chú Bảy bất ngờ trở lại. Không như một người khách trú qua đường, ông là vị cứu tinh của gia đình tôi. Chú Bảy trở về với tất cả sự kính nể và trọng đãi của đám chính quyền địa phương. “Cách mạng” xóa bỏ tỉnh Chương Thiện, thị xã Vị Thanh thành đơn vị huyện thuộc tỉnh Cần Thơ. Chú Bảy là người có công với cách mạng và là bạn đồng chí với bí thư tỉnh ủy. Theo lời chú kể, trong chuyến giao hàng ngang Hỏa Lựu, chú đã vô tình giúp đ dấu trên ghe một người đàn ông đang trọng thương ra khỏi trận ruồng bố của lính quốc gia. Sau nầy biết được người đó chính là bí thư thường vụ tỉnh ủy Cần Thơ. Chú Bảy vốn không biết gì, cũng không quan tâm đến chuyện chính trị, chỉ thấy người hoạn nạn cứu giúp vậy thôi. Nhưng cũng từ đó, chiếc ghe chú Bảy trở thành đường tiếp vận, giao liên cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh… Chú Bảy trở thành dượng Bảy của chị em tôi bằng một buổi tiệc gia đình thật nhỏ. Dượng thật sự rời bỏ một đời sông nước và dừng bước chân thương hồ với mẹ tôi bên bờ kinh xáng Sà-No. Bến xe thị trấn chẳng mấy chốc chen chúc khách đường xa. Mẹ và dượng mở lại quán cơm. Cuộc sống gia đình tôi từ đó ổn định, nề nếp và chiếc ghe của dượng buột bến sau nhà. Thỉnh thoảng dượng cùng mẹ hoặc chị em tôi lại xuôi ngược dòng kinh xáng trong những chuyến mua hàng trên tỉnh… Và, tôi đã biết được người đàn ông trong đêm đó là chính là dượng Bảy.
Ngày tháng qua, tôi vẫn thẫn thờ nhìn những buổi chiều lặng lẽ trên dòng kinh mà thương nhớ một người. Đã năm năm rồi thoáng chốc trôi qua. Đã năm năm rồi không gặp, tin Lộc vẫn biền biệt mù tăm. Cuộc tình có sâu đậm bao nhiêu rồi cũng cuốn dần theo năm tháng mõi mòn. Tôi không còn là cô học trò thơ dại mộng mơ, vụng về chưa biết hôn môi. Đời sống áo cơm và cuộc biến động không chừng của xã hội làm cho thế hệ tôi già dặn trước tuổi thời gian. Vài người đàn ông nữa đã đi qua đời tôi. Những cuộc tình đó thật ngắn ngi và không để lại một âm vang. Tên tôi là một loài chim, con chim luôn vươn lên tìm khoảng trời xanh thẳm, mà chừng như chung quanh nó chỉ là những vách đá cheo leo và những biển đồi không bến đậu. Cuộc chiến tranh chấm dứt bất ngờ, như nén chúng tôi vào xã hội không ngày mai, không lối thoát. Họ, những người trẻ đã ra đi, cũng vẫn chưa trở về. Nếu đâu đó, có người trở lại thì cũng chỉ vội vã, lơ láo chuẫn bị cho một chuyến ra đi vô định khác. Đám thiếu nữ chúng tôi vẫn cô đơn trong nỗi đợi chờ vô vọng. Nhóm người mới, những kẻ chiến thắng họ lại càng ngơ ngác hơn trước những khước từ của cuộc sống chung quanh. Một lần tưởng đã quên, tưởng đã quá khứ cuộc tình mới lớn.
Tính về dạy trường cấp 3 thị xã vài tháng sau ngày giải phóng. Tôi vừa tốt nghiệp phổ thông, còn đang chơi vơi với những đổi thay thì quen Tính. Chúng tôi rơi vào cuộc tình của nhau dễ dàng, vội vã. Ngày mai là đám mây mù của bao nhiêu từ ngữ mới, đảng ta vinh quang hạnh phúc, ngụy quân ngụy quyền, tội ác với nhân dân… vân vân và vân vân. Cùng với hợp tác xã, hộ khẩu, cửa hàng, gạo bán cân từng ký, hàng nhu yếu phẩm tính đầu người… còn bao nhiêu thứ nữa để tuổi trẻ chúng tôi lao vào những cơn lốc của thời cuộc và cả tình yêu. Tôi và Tính ở cơn lốc của tình yêu, để quên và cũng để biết mình còn hiện hữu. Một đêm tôi đã trao anh những giọt máu trinh nguyên từ cửa mình con gái, những mê sảng đầu đời của tình yêu thể xác. Nhưng nghiệt ngã thay, trong nỗi đê mê dục vọng tôi cứ tưởng mình đang nằm trong vòng tay của Lộc và rên xiết gọi tên anh. Chỉ vài tháng sau, Tính bị bắt vì tội chứa chấp tài liệu phản động và có mưu đồ “chống phá chính quyền cách mạng”. Lần cuối vào thăm anh trong phòng tạm giam thị xã, tôi đã khóc xót xa còn anh thì chỉ lặng nhìn tôi thương cảm. Sau đó nghe nói anh bị áp tải lên công an tỉnh. Tôi tìm tới thì được trả lời là đã đưa đi nơi khác, nhưng không ai cho biết ở đâu. Tính biến khỏi cuộc tình tôi từ đó, vĩnh viễn. Tôi hy vọng giữ lại chút gì còn lại của anh, nhưng tất cả chỉ là niềm thất vọng. Những buổi chiều một mình, ngồi nhìn dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ quanh thị xã phía sau nhà, tôi không hiểu tại sao hòa bình rồi mà không còn ai ở lại..?
3.
Chiếc ghe máy chợt như khừng khựng, chậm lại. Tiếng dượng Bảy vọng nhỏ từ phía sau mui:
– Trạm kiểm soát… Tụi nó kêu ghé vô.
Chị em tôi bừng tỉnh, ngồi lại chĩnh tề. Bên ngoài mũi ghe trời cũng lờ mờ sáng. Mẹ tôi vừa xấp lại mấy quả đựng bánh vừa dặn nhỏ:
– Nhớ là mình về giỗ ngoại ở Giồng Riềng, Kiên Giang nghen con.
– Dạ…
Chiếc ghe máy cập sát bờ, hai người thanh niên trẻ nón tai bèo vai khoác súng nhảy xuống chòng chành mũi ghe.
– Đi đâu mà đông dầy nè. Có giấy đi đường hông… Chủ ghe đâu?
– Dạ gia đình tôi về quê đám giỗ. Có giấy đi đường đây, trình mấy chú.
Mẹ tôi lui cui đưa tờ giấy đi đường đã cầm sẵn trên tay. Một ngườI thanh niên rọi đèn pin dọc ngang tờ giấy, còn người kia luồn đầu đi thẳng phí sau mui lái.
– Chú cho coi giấy chứng minh nhân dân.
– Tui đưa má nó dới mấy đứa sấp nhỏ dìa quê ăn đám. Giấy chứng minh của tui đây, chú coi.
Hai người thanh niên cầm giấy tờ ra phía trước mũi ghe, xem xét và thì thầm to nhỏ. Mọi người còn đang yên lặng chờ đợi thì có giọng xấc xược:
– Chú cho tắt máy ghe và tất cả mọi người lên bờ!
– Dạ chuyện gì vậy chú…
– Thì cứ lên trạm sẽ rõ.
Dượng Bảy tắt máy, ra dấu cho chúng tôi theo dượng lên bờ. Tay chân tôi lạnh ngắt, nghĩ đến căn buồng tạm giam mà một lần tôi đến thăm Tính. Trạm kiểm soát là căn nhà lá nền đất vuông vức chừng bảy, tám mét. Bên trong cuối căn vách, phía trên là bức hình lãnh tụ nhìn xuống cười mai mĩa, dưới là một bàn làm việc nhỏ với rải rác giấy tờ và bên hông là một bàn tròn lớn khác với bốn chiếc ngồi chung quanh. Họ ra dấu cho chúng tôi ngồi đợi và cầm giấy tờ cùng dượng Bảy đi vào phía trong. Mấy mẹ con lo lắng nhìn nhau, nghĩ đến tình huống đen tối nhất. Lát sau dượng Bảy đi ra, nói nhỏ:
– Tụi nó tình nghi mình vượt biên.
– Làm sao bây giờ… Mẹ tôi hốt hoảng.
– Đợi tụi nó đi gọi thằng trưởng đồn công an đến giải quyết.
Giọng dượng Bảy vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua. Tôi nhớ đến những vòng kẽm gai của trại tạm giam và khuôn mặt gian ác của tên cán bộ giữ tù lần thăm Tính, khẻ rùng mình. Dượng Bảy đã chuẩn bị giấy tờ thật cẩn thận cho chuyến đi, không hiểu sao đám công an nầy vẫn làm khó dễ. Nhưng mỗi lần nhìn khuôn mặt bình thản của dượng, tôi thấy an tâm phần nào. Cho dù là sự an lành không đâu, trong xã hội mà mọi nghịch cảnh có thể xảy ra bất lúc nào, bất cứ nơi đâu. Có vài tiếng chân và tiếng người lao xao bên ngoài. Tôi sửng sờ ngước nhìn người đàn ông bước vào trạm. Lộc. Đúng là Lộc. Lộc của tôi ngày xưa đây mà. Anh không gì thay đổI, ngoài khuôn mặt hơi xạm đen, ráng nắng. Tôi chưa kịp phản ứng thì Lộc nhìn thẳng mặt tôi thoáng chút ngạc nhiên, rồi hững hờ lướt qua, tiến đến chiếc bàn đặt cuối phòng. Hai ngườI công an đưa những giấy tờ tùy thân của gia đình tôi cho Lộc:
– Xin báo cáo đồng chí trưởng đồn. Giấy tờ đầy đủ nhưng không biết thiệt hay giả. Vã lại trên ghe chở nhiều thực phẩm, lại đi về vùng biển Rạch Gía, rất tình nghi tổ chức vượt biên.
– Được, để tôi. Hai đồng chí cứ tiếp tục nhiệm vụ.
Hai người công an trẻ liếc nhanh về phía chúng tôi rồi bỏ ra ngoài. Lộc nhìn lướt qua giấy tờ, rồi ngước mắt về phía dượng Bảy:
– Ông là chủ hộ, chủ ghe.
– Dạ phải.
Lộc đứng dậy, đi chầm chậm về phía dượng Bảy. Nỗi sợ hãi tan biến, nước mắt chợt từ đâu dàn dụa trên mặt tôi. Biết bao năm tôi đợi chờ, thương nhớ bây giờ là đây. Lộc bằng xương bằng thịt, xa lạ, hững hờ đang trước mặt và chuẩn bị đưa cả gia đình tôi vào vòng tù tội. Nhớ ngày nào bên dòng kinh, anh bảo tôi chờ đợi, tưởng anh không trở về nào ngờ anh đã lãng quên. Tôi cúi đầu, không muốn nhìn anh, không muốn nhìn thấy từng nỗi ước mơ tôi vỡ tan, rụng chết. Tôi không dám nhìn mẹ, dượng, mấy em tôi như thể chính mình là kẻ tội đồ của những hành động lạnh lùng của Lộc đối với gia đình. Lộc ơi, tại sao mình gặp lại nhau làm gì. Tại sao Lộc không chỉ là Lộc của ngày xưa, “Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng…”, như bao lần ai cất tiếng hát em nghe.
– Bà đưa mấy đứa nhỏ xuống ghe, đợi tôi.
Tiếng dượng Bảy làm chúng tôi bừng tỉnh. Hiểu ý ông, mẹ tôi lặng lẽ ra dấu cùng chị em tôi xuống ghe. Tôi cố quay lại nhìn Lộc và dượng đi về phía trong trạm kiểm soát. Lộc đi thẳng, không nhìn lại. Lát sau, mọi người thở phào khi thấy dượng bước xuống ghe với giấy tờ trên tay cười, nói:
– Xong rồi, mình đi.
– Thiệt hả… Ông nói gì với tụi nó vậy.
Mẹ tôi mừng rỡ hỏi. Khuôn mặt bình thản dượng cười nhẹ, kéo cổ áo và chìa cánh tay trái, ôn tồn nói nhỏ:
– Nói gì đâu… Tôi lột đưa thằng trưởng đồn sợi dây chuyền và cái đồng hồ đeo tay. Nó trả giấy tờ cho đi, còn chúc hờ lên đường may mắn.
Chiếc ghe máy dượng Bảy rời trạm, xuôi vào giữa dòng kinh xáng. Tôi không cầm được nước mắt, cắn chặt môi để không ngoái đầu nhìn lại. Trạm gác lùi dần, mờ nhạt phía sau. Dòng sông như tẻ đôi bờ, rẽ con nước từng cụm lục-bình bị đẩy ngược hai bên hông chiếc ghe dượng Bảy. Phía trước chúng tôi là cuối một nhánh sông dài, nơi sông sẽ về với biển… Hơi nước lạnh đọng môi tôi mằn mặn, câu hát nào còn văng vẳng dọc bờ kinh,
“Nơi em về ngày vui không em
Nơi em về trời xanh không em
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rơi xuống thành hồ nước long lanh…”
(Như Cánh Vạt Bay – Trịnh Công Sơn)
Nguyễn Vĩnh Long.
( NC. USA)

Monday, March 4, 2019


                         Thơ Đức Phổ :
                         Mùa tình xin kịp gặt ( 2002)



               Tóc lá buồn
               ( thơ Đức Phổ)
                                                                                
              Ta đợi em, dưới gốc thông già
              bóng lá không đủ hồn râm mát
              người lại, người qua vô cùng tất bật
              hồn bỗng già theo gốc thông kia.                       

             Ta đợi em, ước chừng quên tuổi
             quên tháng ngày, năm mới, xuân sang
             (giữa trùng vây thăng trầm, dong ruỗi                
             mơ màng nghe suối nhớ trào dâng)

            Ta đợi em, ngày nắng tắt nhanh
            đêm hiu hắt khêu sầu giăng mắt
             không bị gây, cũng thành hành khất
             bên xó đời tuyết mọc đầu xanh.

            Ta đợi em, huyết chảy thành băng
            đơn hàn lắm. Đơn hàn vô kể
            suối mắt tuôn sông tràn biển. Lệ
            sóng ân tình trăm đấu chẳng vừa đong.

            Ta đợi em, khuyết mấy khuôn rằm
            hồn ngập lụt giữa trời quang mây tạnh
            xuân phơi phới mà trái tim cóng lạnh
            cánh môi tình quá đỗi xa xăm.                                                    

           Ta đợi em, trải mấy đông xuân
           đồng chim gặt bao mùa, quê cũ
           em tươi rói. Ta, bốn mùa cù rũ
           tóc lá buồn. Đời chóng sang thu.
.
           Đức Phổ

Đã in: 
Một Chỗ Về.( Thi tập) Sông Thu xuất bản 2000
Mùa tình, xin kịp gặt ( Thi tập)Văn xuất bản 2002



S