Behind every successful man is a woman, behind her is his wife.
Chúng ta, trước
75, không ít nhiều cũng đã từng đọc những tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sĩ.
Ông đã xuất bản
khoảng 25 tác phẩm, nổi tiếng nhất là bộ Trường thiên tiểu thuyết “ Khu rừng
lau “ gồm 4 tập : Ba sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh
hóa, Đàm thoại độc thoại.
Bộ sách được
ví như “ Chiến Tranh và Hoà Bình “ của Leo Tolstoy.
Người ta nói “Đằng
sau sự thành công của người đàn ông là sự có mặt thầm lặng của người phụ nữ.”
Có thể nói, vợ
ông, bà Doãn Quốc Sĩ tuy chỉ là cái bóng thầm lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời ông, nhưng,
nếu không có bà là chỗ dựa cho ông, làm sao ông có thể cống hiến cho đời những tác phẩm giá trị, và được sống theo lý tưởng đã chọn ?
Sau 75, khi
miền Nam rơi vào tay Cộng sản, khi những người mà CS gọi là " Ngụy quân, nguỵ quyền " bị tập trung “ cải tạo “,
số phận của những người vợ, người mẹ thời ấy cũng thảm thương không kém. Họ phải sinh tồn
để lo thăm nuôi chồng, bươn chải tìm hạt thóc, hạt gạo cho con..
Số phận của bà
cũng là một trong hàng trăm nghìn người phụ nữ Việt nam cùng chung vận nước điêu linh.
Chúng ta hãy
theo bước chân thầm lặng của bà qua lời kể của Kim Khánh, con gái nhà văn Doãn
Quốc Sĩ..
|
( Bà Doãn Quốc Sĩ.) |
THẦM LẶNG
Một đời thầm
lặng mẹ theo bố.
Tháng 9 năm
1954 mẹ theo bố vào Nam. Trước đó bố hoạt động ngang dọc, sáng ngời lý tưởng, rồi
ê chề thất vọng. Quyết định vào Nam là của bố, mẹ chỉ bế hai con và dắt cô em
chồng 17 tuổi theo. Trong Nam, bố tưng bừng thi thố tài năng, tay phấn tay bút.
Mẹ thầm lặng ở nhà nuôi dạy con và chăm chút em. Dân số con từ hai tăng thành
tám. Tám con tám tính, có lúc hư lúc ngoan; mẹ theo từng bước, khen chê mắng mỏ.
Cô em chồng tốt nghiệp đại học, chuẩn bị lên xe hoa, mẹ lo toan chuyện cưới hỏi.
Bố vất vả bên ngoài, về nhà chỉ cần đảo mắt nhìn là thấy mọi sự tươm tất. Ra đường,
các con được gọi là “con bố”, em là “em anh”, không ai biết có một nhân vật thầm
lặng đã làm nên những con người ấy.
Vào những năm
thăng tiến trong cả hai nghề dạy và viết, bố hay mời khách về nhà đãi đằng. Mẹ
tiếp khách lịch thiệp, rồi rút về hậu trường trổ tài nấu nướng. Trước khi ra về
các bác bao giờ cũng chào “bà chủ” trong tiếng cười hỉ hả “Cám ơn chị cho một bữa
ngon quá.” Thỉnh thoảng có những vị khách nữ, khen thức ăn và khen cả ông chủ.
Tôi còn nhớ có người còn nói rất chân tình với mẹ: “Chồng em mà được một phần của
anh thì em chết cũng hả.” Hình như mẹ đón nhận lời nói ấy như một sự khen tặng
cho chính mình.
Rồi chính sự
miền Nam nóng bỏng; ngòi bút bố cũng nóng theo. Các bạn bố đến chơi chỉ bàn
chuyện cộng sản và quốc gia. Mẹ không mấy quan tâm đến “chuyện các ông”, nhưng
khi bố đi Mỹ du học, mẹ ở nhà điều hành việc bán sách thật tháo vát. Khoảng hai
tuần một lần, mẹ đi xích lô đến trung tâm Saigon, rảo một vòng các tiệm sách để
xem họ cần thêm sách nào. Sau đó mẹ cột sách thành từng chồng và “đáp” một chuyến
xích lô khác để giao sách. Tôi hay mân mê những sợi giây được cột chắc nịch,
suýt xoa: “Sao mẹ cột chặt hay thế"”
Thế rồi chính
sự miền Nam đến hồi kết thúc. Con người không chính trị của bố lại một lần nữa
ê chề. Ngày công an đến bắt bố đi, mẹ con bàng hoàng nhìn nhau. Các con chưa đứa
nào đến tuổi kiếm tiền. Mẹ xưa nay thầm lặng trong vai “nội tướng”, giờ miễn cưỡng
ra quân. Tiền dành dụm của gia đình không đáng kể. Có tám miệng để nuôi, có bố
nhục nhằn trong lao tù đợi tiếp tế. Mẹ vụng về tìm kế sinh nhai. Thoạt tiên mẹ
nấu khoai mì trộn với dừa và vừng, rồi để vào rổ cùng với một ít lá gói. Tôi
băn khoăn hỏi:
“ Mẹ nghĩ có
bán được không"”
“Mẹ không biết,
cứ mang ra chỗ trường học xem sao.”
Nhìn dáng mẹ
lom khom ôm rổ, đầu đội xụp cái nón lá, tôi thương mẹ khôn tả. Chỉ nửa tiếng
sau tôi đã thấy mẹ trở về. Rổ khoai mì vẫn còn nguyên, mẹ ngượng ngập giải
thích:
“Hình như hôm
nay lễ gì đó, học trò nghỉ con ạ.”
Rồi mẹ lại
xoay sang nghề bán thuốc lá. Mẹ mua lại của ai đó một thùng đựng thuốc lá để bầy
bán. Mẹ nghe ai mách bảo, chọn một địa điểm khá xa nhà rồi lụi hụi dọn hàng vô,
dọn hàng ra mỗi ngày. Nghề này kéo dài được vài tháng. Mẹ kể cũng có một số
khách quen, nhưng toàn mua thuốc lá lẻ. Hôm nào có khách “xộp” mua nguyên bao
thì mẹ về khoe ngay. Cũng may thuốc lá không thiu nên khi “giải nghệ” mẹ chỉ lỗ
cái thùng bầy hàng.
Mẹ rút về “bản
dinh” là căn nhà ở cuối hẻm, tiếp tục nhìn quanh, tìm một lối thoát. Hàng xóm
chung quanh phần lớn là những người lao động. Họ như những đàn kiến chăm chỉ cần
cù, 4 giờ sáng đã lục đục, người chuẩn bị hàng họ ra chợ, kẻ kéo xe ba bánh hoặc
xích lô ra tìm khách. Suốt mười mấy năm qua họ nhìn gia đình chúng tôi, gia
đình “ông giáo”, như từ một thế giới khác, kính trọng nhưng xa cách. Nay “ông
giáo” đi tù, “bà giáo” hay xuất hiện ngoài ngõ, có lẽ họ cảm thấy gần gủi hơn.
Một hôm, chị bán sương xâm ở đối diện nhà qua hỏi thăm “ông giáo”. Thấy cái máy
giặt vẫn còn chạy được, chị trầm trồ: “Giặt máy tiện quá bác há!”, rồi nảy ý “Tụi
con ngày nào cũng có cả núi quần áo dơ. Bác bỏ máy giặt dùm, tụi con trả tiền.
Bác chịu không"” Lời đề nghị thẳng thừng, không rào đón. Mẹ xăng xái nhận
lời. Kể từ đó, mổi tuần khoảng hai lần, mẹ nhận một thau quần áo cáu bẩn, bốc đủ
loại mùi khai, tanh, nồng. Mẹ đích thân xả qua một nước, rồi múc nước từ hồ chứa
vào máy giặt, bỏ xà bông và bắt đầu cho chạy máy. Cái máy cổ lỗ sĩ, chạy ì ạch
nhưng nhờ nó mà mẹ kí cóp được chút tiền chợ.
Ít lâu sau,
cũng chị hàng xóm đó lại sáng thêm một ý nữa:
“Con bé nhà
con nay biết bò rồi, con không dám thả nữa. Bác nhận không, con gửi nó mỗi ngày
từ sáng tới chiều. Con trả tiền bác.”
Thế là sự
nghiệp nhà trẻ của mẹ bắt đầu. Mẹ dọn căn gác gỗ cho quang, có chỗ treo võng,
có cửa ngăn ở đầu cầu thang. Cả ngày mẹ loay hoay bận bịu pha sữa, đút ăn, lau
chùi những bãi nước đái. Được ít lâu, chị bán trái cây ở cuối hẻm chạy qua nhà
tôi, nói:
“Bác coi thêm
con Đào nhà con nha. Con mang cái võng qua mắc cạnh cái võng của của con Thủy.”
Hai võng đong
đưa một lúc, cháo sữa đút liền tay hơn, căn gác bừa bộn hơn. Sau đó lại thêm một
thằng cu nữa. Mẹ tay năm tay mười, làm việc thoăn thoắt. Cũng công việc quen
thuộc ấy, ngày xưa làm cho con, nay làm kế sinh nhai, nuôi đủ tám con với một
chồng. Mẹ không còn thầm lặng nữa. Mẹ lớn tiếng điều khiển tám quân sĩ, cần roi
có roi, cần lời ngọt có lời ngọt. Riêng chúng tôi vẫn nhớ ơn những người lao động
đã giúp chúng tôi sinh sống những ngày khốn khó đó.
Nhưng sau những
giờ ban ngày ồn ào náo động là những đêm tối trầm ngâm lo lắng. Nỗi bận tâm
không rời của mẹ là chuyện thăm nuôi bố. Mỗi ngày mẹ nghĩ ra một món, làm dần
vào buổi tối, nay muối vừng, mai mắm ruốc, mốt bánh mì khô. Mẹ để sẵn một giỏ lớn
trong góc bếp và chất dần đồ thăm nuôi trong đó. Khi giỏ đầy là ngày thăm nuôi
sắp tới. Thuở ấy bố bị giam ở núi đồi Pleiku, muốn lên đến đó phải mất hai ngày
đường và nhiều giờ chầu chực xe đò. Mỗi lần thăm nuôi, hoặc mẹ, hoặc một đứa
con được chỉ định đi. Con trưởng nữ hay được đi nhất vì nó tháo vát và nhanh
trí, thằng thứ nam cũng đươc nhiều lần “tín nhiệm”; mẹ nói nó nhỏ tuổi nhưng đạo
mạo, đỡ đần mẹ được. Con thằng trưởng nam đúng tuổi đi “bộ đội”, mẹ ra lệnh ở
nhà. Có lần mẹ đi về, mặt thất thần. Các con hỏi chuyện thì mẹ chỉ buông hai chữ
“biệt giam”. Biệt giam thì bị trừng phạt không được thăm nuôi. Tôi thảng thốt hỏi:
“Đồ thăm nuôi
đâu hết rồi mẹ"”
“Mẹ phải năn
nỉ. Cuối cùng họ hứa chuyển đồ ăn cho bố.”
“Mẹ nghĩ họ sẽ
chuyển không"
“Họ hẳn sẽ ăn
bớt, nhưng nếu mẹ mang về thì phần bố đói còn chắc chắn hơn nữa.”
Mẹ ngày nào
thầm lặng, nay thực tế và quyết đoán như thế.
Ngày bố được
thả đợt 1, nhà trẻ của “bà giáo” vẫn còn hoạt động. Mẹ hướng dẫn bố đu võng khi
các bé ngủ. Mẹ cũng dặn bố thường xuyên lau chùi gác và bỏ giặt tã dơ. Bố một mực
nghe lời. Tưởng như cờ đã chuyền sang mẹ một cách êm thắm…
Tuy nhiên, mẹ
không thể ngăn được bố lân la cầm lại cây bút. Thời gian này là lúc họ hàng
ngoài Bắc vào chơi nhiều. Bên ngoại có cậu tôi làm đến chức thứ trưởng; cậu kể
rằng lúc còn sống, ông ngoại (một nhà thơ cách mạng) phiền lòng vì sự nghiệp
văn chương của thằng con rể. Bên nội có chú tôi - một nhạc sĩ cách mạng- chú biết
ngòi bút đang thôi thúc bố và đã từng rít lên giữa hai hàm răng:
“Trời ạ! Đã
chửi vào mặt người ta, không xin lỗi thì chớ lại cón nhổ thêm một bãi nước bọt!
Lần này mà vào tù nữa thì mọt gông.” .
Mấy mẹ con chết
lặng trước viễn tượng “mọt gông”. Bố không màng đến điều này, vẫn miệt mài gõ
máy đánh chữ. Đêm khuya thanh vắng tiếng gõ càng vang mồn một. Vài lần mẹ can
ngăn, có lần mẹ giận dữ buộc tội:
“Ông chỉ biết
lý tưởng của mình, không biết thương vợ con.”
Vài tuần sau,
chị hàng xóm đối diện nhà chạy sang xì xào với mẹ:
“Công an đặt
người ở bên nhà con đó bác, họ theo dõi bác trai.”
Mẹ lại thử
can thiệp, nhưng đã quá trễ. Bố bị bắt lần thứ hai năm 1984. Lần thứ hai bị bắt,
bố bình tĩnh đợi công an lục lọi tung nhà. Trước khi bắt đi, họ chụp hình bố với
nhiều tang chứng chung quanh. Trong hình bố ngẩng cao đầu trông rất ngạo nghễ.
Nhiều năm sau, bố vẫn còn được nhắc tới với hình ảnh này. Không ai biết đến người
đàn bà thầm lặng bị bỏ lại đằng sau. Sau biến cố thứ hai này, mẹ phải đối phó
thêm với nhiều khó khăn loại khác, điển hình là những giấy gọi gia đình ra dự
phiền tòa xử bố. Gọi rồi hoãn, rồi lại gọi lại hoãn. Mỗi lần như vậy cả nhà lại
bấn loại tâm trí, lo cho mạng sống của bố. Riêng mẹ thì vừa lo vừa soạn thêm một
số thức ăn thăm nuôi. Mẹ thực tế là thế đó.
Sau khi bố bị
gọi án 10 năm tù, cuộc sống của mẹ không còn những bất ngờ khủng khiếp, chỉ còn
những đen tối và tù túng đều đặn. Tưởng là dễ chịu hơn, nhưng thực ra nó gậm nhấm
tâm thức, tích lũy buồn bực chỉ đợi cơ hội bùng nổ. Hết ngày này qua tháng nọ mẹ
lầm lũi chuẩn bị đồ thăm nuôi, từng món ăn thức uống, từng vật dụng hằng ngày.
Các con lần lượt trưởng thành, đứa nào cũng có bạn bè và những sinh hoạt riêng.
Chuyện thăm
nuôi bố và lòng thương bố quan trọng lắm, những cũng chỉ là một phần trong những
cái quan trọng khác trong đời. Chỉ đối với mẹ, những thứ ấy mới là tất cả, độc
tôn choán ngập tâm hồn mẹ. Mẹ hẳn có những lúc thấy tức tưởi và cô đơn mà các
con nào hay biết. Có vài lần chúng tôi lỡ một lời nói hoặc cử chỉ không vừa ý mẹ,
me òa khóc tu tu, lớn tiếng kể lể, tuôn trào như một giòng lũ không ngăn được.
Lúc ấy chúng tôi mới choàng tỉnh.
Ngày mãn hạn
tù về, bố bình an như một thiền sư, để lại sau lưng hết cả những thăng trầm của
quá khứ. Rồi bố mẹ sang Mỹ ở Houston sống cùng cậu trưởng nam. Mẹ bận bịu với cháu
nội, nhưng không quên nhắc ông nội đi tắm và bao giờ cũng nặn kem đánh răng vào
bàn chải cho ông mỗi tối. Thỉnh thoảng giao tiếp với họ hàng và bạn bè, mẹ lại
phải đỡ lời cho bố, khi bố cứ mỉm cười mà không nói năng chi. Thư viết về cho
con cháu ở VIệt Nam, ai cũng nói mẹ viết hay hơn ông nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Lúc
đó chắc mẹ tự nhủ thầm rằng: “bởi vì mẹ là con của ông Tú Mỡ mà!”
Như thế được
mười năm thì mẹ ngã bệnh. Hôm nay, ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, mẹ
nằm bất động một chỗ và không nói được nữa. Nhưng mẹ vẫn đưa mắt nhìn bố mỗi lần
bố ra vào trong phòng. Hôm nào bố vắng nhà vài ngày thì mẹ nhìn con trai, mắt
dò hỏi lo lắng. Khi bố về thì mẹ vẫn nhìn bố, ánh mắt yên tâm hơn. Mẹ thầm lặng
hơn bao giờ hết. Dưới mắt bố con chúng tôi, sự thầm lặng ấy càng ngày càng tỏa
sáng.
Kim Khánh( Houston )