Sunday, December 16, 2018




           Ảnh : ( Trái ) Nhà thơ Ngọc Hoài Phương
           Một nữ thi sĩ ( không được biết tên )
           Nhà thơ  Lê Khắc Anh Hào
           Nhà thơ Trần Trung Đạo



TIỄN BIỆT NHÀ THƠ LÊ KHẮC ANH HÀO (1942-2018)(*)
( Trần Trung Đạo )

Nhà thơ Lê Khắc Anh Hào vừa qua đời chiều ngày 6 tháng 12, 2018. Anh tên thật là Lê Khắc Hai, sinh năm 1942 tại Phan Thiết, Bình Thuận, học báo chí tại Đại Học Vạn Hạnh và làm phóng viên báo Sóng Thần. Anh tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 23. Sau 1975, anh ở tù CS năm năm, vượt biển năm 1980 và định cư tại Canada trong cùng năm. Anh thường ký bút hiệu Hải Triều hay Lê Khắc Anh Hào và là tác giả của 11 tác phẩm văn thơ.
Quen nhau qua thơ văn từ nhiều năm trước. Anh đến Boston vài lần và đều có gặp nhau. Anh biết tính tôi không muốn xen vào “chuyện của các bậc đàn anh” nên khi gọi phone hay gặp gỡ chỉ bàn chuyện đấu tranh, những chuyến đi xa của anh, những tác phẩm mới ra đời.
Lần nói chuyện bằng điện thoại lâu nhất là khi anh chuẩn bị viết tác phẩm Máu Và Nước Mắt Trên Lưng Trường Sơn liên quan đến “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Anh muốn đăng lại bài viết của tôi trên talawas cũng về trường hợp Đặng Thùy Trâm. Dĩ nhiên tôi rất hân hạnh được góp phần với anh. Anh đưa bài viết vào phần phụ đính trong tác phẩm Máu Và Nước Mắt Trên Lưng Trường Sơn.
Nếu chỉ đọc văn thơ tranh đấu của anh thôi, độc giả dễ nghĩ anh phải là người hùng hổ, mạnh bạo, cứng rắn, thách thức. Nhưng không, từ cách cư xử cho đến cách ăn nói, anh Lê Khắc Anh Hào rất hiền từ, nhẹ nhàng và rất chân tình. Anh sống với niềm tin vào tương lai tự do dân chủ của đất nước nên bao giờ cũng lạc quan và mỉm cười trước mọi khó khăn.

Sống xa nhau quá nên không biết anh bịnh. Thật bất ngờ và xúc động nghe tin anh qua đời.
Hai anh em có nhiều hình chụp chung nhưng đăng lại bức hình bên cạnh để nhớ một kỷ niệm rất xưa, hơn 20 năm là ít khi anh em ăn trưa với nhau trong một quán ở California. Bức ảnh chỉ bốn người nhưng ghi dấu nhiều thay đổi kể từ hôm đó. Người đứng bên trái là nhà thơ Ngọc Hoài Phương. Người phụ nữ trong hình là nhà thơ nhưng đã xuất gia. Nhà thơ Lê Khắc Anh Hào vừa ra đi tuần trước, và tôi.

Mọi người rồi sẽ lần lượt ra đi hết. Người đi sau tiễn đưa người đi trước.
 Em kính tiễn đưa anh Lê Khắc Anh Hào.
Trần Trung Đạo

(*) Góc từ.. Tôi đã gặp anh hai lần. Môt lần từ rất lâu, anh về NO dự ngày họp mặt Thủ Đức. Hôm đó, anh em gặp nhau nhưng không có thời gian để chuyện trò, anh bận rộn với bạn bè, chiến hữu. Anh có rất nhiều người quen lẫn ngươì hâm mộ ờ đây.
Lần thứ hai cách đây ba năm, cùng chuyến xe với anh và chị trên đường đi Las Vegas trong lần hội ngộ trường cũ. Nói là đi chung xe nhưng chúng tôi ngồi theo nhóm, và cũng không có dịp trò chuyện. 
Không ai nghĩ, ngay cả với tôi, anh lại rời bỏ trần gian nầy quá sớm, bỏ lại lưng chừng những hoài vọng, những tâm huyết mà anh hằng theo đuổi, ấp ủ ..
Vô cùng thương tiếc khi mất đi một ngươì anh hiền lành, giản dị, suốt đời đấu tranh cho một quê hương xa vạn dặm.
Anh Hải Triều. Xin chia tay cùng Anh.


Wednesday, December 12, 2018


                 Tập thơ: Lửa đốt ngoài giới hạn.
                 từ : Cao Đông Khánh
                 ( 1941- 12.12. 2000)
                 ảnh : Nguyễn Khôi Việt



Nhớ Anh... muời tám năm rời bỏ trần gian...
Một kiếp . Một đời . 
Lấy đó làm vui (* )


Rất nhiều bạn bè văn nghệ, bạn đời thường viết về anh. Họ có cùng với anh những kỷ niệm đậm men say, những ký ức rưng rưng khi nhặt nhạnh hồi tưởng. Họ nói về anh “Thơ Cao Đông Khánh là lịch sử thuyền nhân dưới những góc nhìn táo bạo, khốc liệt nhưng sau những con chữ nhảy múa là thế giới tiềm ẩn hồn thơ “ ( trích)

Riêng tôi, làm sao tôi có thể mở từng bản lề cánh cửa của quá khứ, có thể tách dù chỉ một  mảng trong từng vạt kỷ niệm nhỏ nhoi với anh, với bạn bè ngày ấy khi mọi thứ ở cuộc đời nầy, đã một ngày đột nhiên “một bữa hừng hực “ biến mất cùng “-lửa-đốt ngoài giới-hạn
Dù bao năm trôi qua, khi mường tượng lại, trong trí tưởng của tôi, ở buổi tối họp mặt cùng với bạn bè thân hữu gần xa, anh đứng đó, nơi góc khuất cạnh chiếc bàn ngổn ngang nào ly nào rượu, lưng chênh vênh dựa tường, tay cầm ly rượu, dáng vẻ vừa tán thưởng vừa lơ đãng, đôi mắt lúc hờ hững lúc lim dim như bàng quan với những âm thanh xao xác chung quanh. Anh, lúc ấy, như lạc vào một thế giới mơ mơ hồ hồ dường như không gian kia, tiếng đàn ấy là tiếng nỉ non của rừng cây giật gió khua động lá, và tiếng hát dội trong lồng ngực anh những âm thanh trầm đục bẽ bàng của khuôn mặt muôn hình muôn vẻ gọi tên đời sống.

Anh đứng đó mà dường như không-ở-đó.
Anh ở đó mà dường như không-đứng-đó .

Tôi nghĩ, lúc ấy, chính trong căn phòng đùn đẩy mọi tiếng động, anh đang lạc vào thế giới của riêng anh, xa lạ chung quanh nhưng lại vô cùng gần gũi cõi mênh mông, không rõ, vì với tôi, lúc nào anh cũng có vẻ lãng đãng tựa như bướcr chân đi qua lớp sương lụa mà không hề để ý rằng, mình vừa đi qua, vừa lướt qua đám đông bộn bề trần gian với chút ngạc nhiên lẫn băn khoăn.
Tôi nhớ, lúc ấy, sau khi chấm dứt bài hát, anh vỗ vai V. 
“ Tao thích thằng nầy “ 
Yêu và thích, với anh thật giản dị, như thể, những câu nói ấy xuất phát từ cái khoác vai mạnh mẽ, từ trái tim tràn trề những mạch máu hào hứng, nông nỗi không dấu diếm .
Ít khi tôi được đọc những câu thơ dành cho người anh yêu, lại nhớ nhung một cách đằm thắm dữ dội, tựa như thế giới ấy sẽ bị tan biến, sẽ đổ nát vì Em. Một  lời hẹn lỡ.

Em hẹn. Một  tháng. Có lẻ mùa băng rã.
Rừng núi căm căm. Nứt. Đổ. Kinh hoàng.
Một tháng nữa. Một tháng. Trời đất động.
Hồn vía nào không khỏi kinh tâm.

Có phải đó là cách bày tỏ tình yêu, chỉ một Cao Đông Khánh, qua những góc cạnh lạ lùng, gần như ngưỡng mộ, tôn sùng. Có phải đó là hình ảnh lạ lẫm, chấp chới của nữ thần tình yêu đặt tên hạnh phúc. Nữ thần ban cho anh những ân sủng tuyệt vời để anh thoả thích bơi lội trong bốn mùa trần tục diệu kỳ say đắm.

Em nhỏ nhẹ làm vui từng chi tiết
Những sắc rau xanh một tín ngưỡng linh đình
Mỗi tiếng nói. Mỗi miếng ăn. Mỗi hơi thở mỏng
Có linh hồn con mắt ở bên trong .

Với anh, bạn hữu là những thực thể rất thiêng liêng, rất quí trọng, không phải do tình cờ gặp gỡ. Nếu đã là bạn thì hẳn người đó đã dạo chơi đâu đó với anh trong một kiếp nào xa xưa. Trong một sát na nào đó mênh mông cõi càn khôn vũ  trụ, đã tình cờ gặp lại.

Những kẻ có tiền kiếp một lần tề tựu
Một kiếp một đời lấy đó làm vui .

Người Bắc và người Trung thường thích ngâm thơ khi muốn diễn tả tình cảm được gửi gắm trong bài thơ và thường, âm điệu của giọng ngâm mang lại cho người nghe cảm giác rung động sâu trầm tự trong trái tim. Có chút man mác. Có chút nghẹn ngào.
Nhưng với anh, anh chỉ đọc thơ
Đó là cung cách của một người miền Nam bộc trực, thẳng thắn và hào phóng. Đôi khi nhuốm chút giang hồ, bạt mạng.
Nghe anh đọc thơ, tôi- hốt- nhiên thấy tôi của những ngày kinh hoàng cùng khổ,  tả tơi đói khát trong “ Sở thú người“ mà anh miêu tả. Tôi nhìn tôi qua anh với nỗi u uất mê sảng trong thân phận tị nạn. Buồn bã. Bất lực. Tuyệt vọng khi nhớ về quê hương. 
Qua những chuyển động âm thanh nhức nhối, bi thương kia, tôi nghĩ, dù bài thơ đã dứt, người đọc đã đột ngột đặt dấu chấm hết  hay chấm ngừng lơ lửng, nhưng người nghe vẫn còn trong tâm trạng  bàng hoàng, hình như còn chờ đợi anh sẽ dẫn dắt họ đi tiếp, đến một thế giới khác, thế  giới cuồng nộ của đau khổ, trần trụi xúc cảm, của niềm đau che dấu sau tiếng cười khinh mạn.
Đã mười mấy năm, tôi vẫn nhớ như in cảm giác mê hoặc ấy, nó như lôi cuốn tôi lạc trong khu rừng đầy âm thanh, nhiễu nhương tiếng động mà ở đó, hạnh phúc và đau khổ hoà quyện vào nhau như một chất nhựa keo bám chặt trong từng giây, từng phút theo nhịp thở. Đôi khi đột ngột choáng voáng bởi một cú va vập. Đôi khi như vừa nhấp phải ngụm rượu cay. Không quá đắng nhưng đủ để say. Để ngây ngất .
Tưởng tượng. Anh đứng đó, giọng đọc sang sảng như bốc cháy cùng thơ, anh ném chữ nghĩa về mọi phía và gom nó lại bằng những ngón tay phù thuỷ. Mọi thứ mang đến cho người nghe, những tâm trạng hụt hẫng chao đảo như say sóng, cái cảm giác ấy óng ánh dị thường mà cũng ngào ngạt chất men say.
Chất men pha hỗn tạp ở đời sống trần tục trộn lẫn quá khứ bi thương mà hình như ký ức ấy luôn gọi tên anh, xô, đẩy, níu anh dạt về một phía .  
Ngôn ngữ thơ có phải là sự nổi loạn, phản kháng khi cái ác hồi sinh, cá tính bất cần đời nhìn sự vật trần trụi qua lăng kính của màu xám xịt đời sống, màu đen phận người, màu bùn của đất, với lời cảm thán “ những con đường trở lại đi suốt đời không hết, những món nợ ân tình khi nào trả cho xong. Sống chết một đời không đủ để yêu nhau ..”
Thơ của anh, ngôn ngữ của anh, chẳng gò ép bởi vần điệu nào mà mênh mông vô vàn cung điệu, vô vàn những cung bậc cảm xúc, đọc mà xây xẩm, mà ngất ngư.
Ở ngôn ngữ rất riêng đó, cách dùng chữ rất lạ lùng, kỳ dị và lôi cuốn ..

“Em. Cảm giác thật gần. 
Gần như khiếp đảm .
Cảm tưởng ở xa. 
Xa lạnh lẽo hơi người “

Anh trộn lẫn không gian vào thời gian, nhào nặn ban ngày vào ban đêm lồng lộng, trộn máu, mồ hôi và mùi đất nung ngai ngái đặt tên tuyệt vọng. Anh hối hả viết, hớp hơi thở mà viết..như thể nhốt đêm vào vô tận để níu kéo một bình minh.
Và, hào sảng “ Mở cửa không trung “ Mở. Vô tận.
Vô tận bởi anh đã đi cùng trời cuối đất. Ra ngoài biển mưa đưa anh đi qua núi mây tầng lớp. Đi qua sông qua suối qua kinh rạch qua nhân tình chằng chịt thế thái. Và anh đã tìm gì, Gặp gì ?
Không. Anh không cần bất cứ điều gì cho riêng mình ngoài những ngôn ngữ kỳ lạ, dữ dội, đau đớn như tiếng hú thống thiết của loài sói cô đơn. Như dòng nham thạch chảy miệt mài dưới hoả diệm sơn.
Như dòng nước âm ỉ đổ tràn qua con đập bung vỡ hăm hở hoà nhập vào biển lớn bởi những đợt sóng bi thương lẫn phẫn nộ .
Có phải. Khi sự thống khổ vượt qua giới hạn, mọi thứ sẽ bóc trần nguyên hình bộ mặt đau đớn của cảm xúc.
Và khổ tận.

“Ta sống, cảm giác ngọn giáo đâm trước ngực 
Mũi tên tẩm độc ghim đầy chân tay
Gửi về Việt nam cho đến xương tàn cốt rụi “

Rất đặc biệt. Anh Cao Đông Khánh ạ. Anh không thể lẫn với bất cứ ai được.
Và, cái ngang tàng khí phách ấy, rành rành ra kia:

“Tôi sống làm mộ bia
Cho bạn bè thân hữu
Tôi sống làm chứng nhân
Đâu có cần ngôn ngữ
Buổi sáng uống chén trà mặt trời
Buổi chiều ly rượu mặt trăng
Tôi là thằng đào ngũ phản bội
Mùi quê hương trong biển dữ kinh hoàng”

Và, sau tất cả, là một Cao Đông Khánh.

“ Hắn cô đơn. Hắn trọn vẹn. Biết bao. Hắn có huyền thoại. Hắn có những ngàn năm trước và những mơ hồ trước đó. Hắn có những ngàn năm sau và những mơ hồ sau đó. Hắn là một thế giới riêng, một vô biên sống bên cạnh những tư duy khác, những con người vô
biên khác, những thế giới láng giềng. Ai cũng có những thể dạng hạnh phúc riêng trong cô đơn của họ.
Đối với hắn, không có vấn đề hoài nghi. Mọi sự thật giả căn cứ trên những định ước tương đối, kể cả , đời sống hữu hạn cũng hàm chứa cái vô hạn cực kỳ “(thế giới láng giềng)

Với những câu thơ mang một nét đặc biệt phá cách và một ấn tượng riêng, thơ Cao Đông Khánh như một tác phẩm nghệ thuật với bút pháp phóng khoáng, hình ảnh hỗn mang, mỗi vệt màu mang nét chấm phá không hình thù, sau mảng bâng quơ là hào khí cao ngạo ngất trời lừng lững. Ở đó, nó đã tái hiện quá khứ bi thương của đất nước, tiếng phẫn uất khẩn thiết của loài người bị dồn vào đường cùng, sự đấu tranh để sinh tồn và cả những hoài bão, đôi khi chỉ một bước giữa lằn ranh sinh tử.
Ngoài cách hành văn dồn dập, đột ngột, hoặc liên hồi bất tận, đặc biệt trong thơ của anh, mặc dù là người miền Nam, anh viết rất chính xác từng dấu hỏi, ngã. Mỗi dấu câu cũng mang một hàm ý ẩn dụ theo từng bài thơ. Tôi thật ngưỡng mộ anh về sự trân trọng chữ nghĩa. Một tài sản văn hoá quí giá, hiếm hoi mà chúng ta mang theo và cố gắng gìn giữ.
Không có nhiều mảnh ký ức để tôi có thể mở ra, để có thể nhìn ngắm những hạnh phúc riêng khắc khoải trong cô đơn, và có thể ghép lại từng trang hạnh phúc bất tận, đôi khi, vượt ngoài giới hạn.

Đã mười tám năm ...
Mọi thứ, với tôi, dường như chỉ mới hôm qua. Dường như thời gian đã đứng lại ở khoảng khắc của chừng ấy năm, lần hội ngộ ngắn ngủi và bàng hoàng chia lìa.
Nhớ giọng đọc thơ sang sảng như được thoát ra từ sâu thẳm trong lồng ngực nhức nhối. Nhớ  tiếng nói, tiếng cười và dáng đi lừng lững,  mặc kệ đời sống xung quanh đè nặng, phơi bầy những đẩy đưa phù phiếm.
Anh đã bước vào cánh cửa hư vô. Đã giã từ cõi tạm, giã từ người yêu, bạn bè, cũng bất ngờ như khi anh đến trần gian ..

Xin mượn câu thơ của anh Tô Thẩm Huy để chia tay, cùng anh :
Mày một bữa nằm im như giun dế
Tao một bữa ngồi im như bàn ghế
Nhớ mày mà không muốn khóc bữa nay .

(*) Tựa và những chữ in nghiêng từ ý thơ của Cao Đông Khánh .
( Nguyễn thị Hồng Hải )

Sunday, December 9, 2018


                           (ảnh từ tác giả)


Cà phê mưa...
( Phạm Nga)

1.
Trong cuộc sống, chỉ rất bình thường là chuyện mưa nắng nhưng nhiều lúc, khi trời đổ mưa là mang đến cho những cư dân thành phố chúng ta những vui buồn xen lẫn vào nhau. Như khi Sài Gòn có mưa sẩm chiều và đêm, ở khu trung tâm và các phố thương mai và dịch vụ, vô vàn ánh đèn đủ màu đủ sắc, đầu đường cuối phố, trên cao dưới thấp nhập nhòa trong màn mưa đã khiến cho Sài Gòn trong cơn mưa đêm trông có vẻ như đẹp hơn, một vẻ lộng lẫy mơ hồ…
Thành phố đẹp hơn khi có mưa đêm nhưng dù ngày hay đêm, mưa trời đã làm cuộc sống của nhiều người trong chúng ta phải nhọc nhằn, vất vã hơn. Mùa mưa đến xua đi cái oi bức khó chịu của mùa khô, mát mẻ hơn đấy nhưng lại bắt đầu diễn ra đủ thứ chuyện không hay ho gì. Như ướt át, nước ngập, kẹt xe… gây khó khăn, trở ngại cho việc đi đến chỗ làm và ra về khi tan sở, việc đưa rước con cái đi học, chở hàng đi giao, gánh hàng rong đi bán .v.v… Nhiều công việc, sinh hoạt sẽ trở nên mất nhiều thì giờ hơn, hiệu quả lại giảm sút, năng suất xuống dốc, hàng hóa ế ẩm…, nhất là đối với những người ngày đêm phải thường xuyên có mặt ngoài đường phố, bám lấy đường phố để sinh nhai.
Tuy nhiên, cũng có lúc – đối với bạn và tôi – trời mưa lại là một món quà tặng hậu hĩnh của thiên nhiên. Thôi nói luôn cho rồi: trời mưa thì đi uống cà phê rất thú vị.
Trước tiên, có thể hình dung những người đang lầm lũi bán hàng rong ngoài đường hay những anh thợ hồ, thợ sơn đang làm việc trên giàn giáo ngoài trời, trời chợt đổ mưa lớn thì phải ngưng việc, đi tìm chỗ trú. Ngay lúc này, ở mái hiên ké né núp mưa chợt có một tủ bán thuốc lá – cà phê, hay ngay cổng công trường có luôn cái quán cóc của chị Ba, chú Tư…, có một cái cà phê nóng lúc này sẽ rất ngon và đã đời, nhất là với người quần áo đã ướt sủng nước mưa đến lạnh run.

2.
Cũng không tệ lắm cái chuyện những người bán hàng rong, những anh thợ xây dựng đã được cà phê an ủi nhiều vào lúc phải khổ sở dừng công việc vì trời đổ mưa đột ngột. Còn những người xưa nay đã sẵn ghiền cà phê như bạn và tôi thì sao khi mưa đổ ngoài trời?
Vào cái thời còn lui tới giảng đường Văn Khoa, đám sinh viên đầy mơ mộng tụi tôi rất khoái trời mưa. Thấy sấm chớp nổi lên, mưa vừa rớt hột thì thiên hạ lo chạy đi tìm chỗ trú hay chạy vội về nhà để tránh cơn mưa, còn tụi tôi thì làm ngược lại – chạy…ra đường. Có gì đâu, chỉ là kiếm tìm nhau để đi uống café. Địa điểm rất ít khi thay đổi là quán Hân ở vùng Đakao. Nếu trời đổ mưa đang lúc cả bọn có mặt tại trường thì càng dễ rủ rê vì quán này chỉ cách trường vài trăm mét. Chỉ cần tên nào đó lên tiếng là cả đám đồng loạt xếp sách vở, xuống sân lấy xe. Có khi đi bộ luôn trên đường Đinh Tiên Hoàng dưới cơn mưa – cho thêm phần…lãng mạn.
Đúng hơn là dân ghiền, thích cà phê như chúng tôi đều đi ngồi café – ngồi lâu dài, ngồi nhẵn mặt ở cái quán quen thuộc của mình. Đến quán, an vị rồi thì lơ đãng nghe nhạc trong khi chờ món cà phê mình gọi được mang ra. Nhạc ở Hân rất tuyệt, từ nhạc Việt, nhạc ngoại quốc cho đến nhạc giao hưởng. Sau một lát trao đổi vài đề tài nhẹ nhàng, ai nấy đều trở nên thinh lặng và lười cử động. Mỗi người như đều tách khỏi câu chuyện bạn bè để riêng mình theo đuổi cái cảm giác bình yên, ấm cúng đang choáng ngợp thân tâm lúc này. Qua mơ màng khói thuốc, có thể ung dung ngắm mưa ngoài đường hay thầm lén ngắm trộm cô bạn học ngồi trước mặt đang rón rén thưởng thức ly nước cam vắt. Hình như khi thướt tha áo dài, buông lơi tóc thả vào lúc trời đổ mưa, cô bạn trở nên duyên dáng lạ thường.
Nguyên có một cô bé SV mới xong năm dự bị, tức dưới tôi gần nguyên học kỳ cử nhân 4 năm, nhưng trong nhóm, số bạn SV cao học như tôi lại ngầm xem cô bé “đàn em” này ngang hàng bởi họ thấy giữa tôi và cô bé đã có hình-như-là-tình-yêu với nhau, Trong một lần hẹn hò đi cà phê với cô nàng rồi trúng trời mưa, tôi đã bàng hoàng đến muốn bay bổng lên mây!
Lần ấy, hai đứa hẹn ở quán La Pagode, theo tiếng Pháp nghĩa là cái chùa, ở đường Tự Do. Tôi đến muộn, quần áo thì ướt đẫm nước mưa. Nhà hàng sang trọng này có hai mặt tiền bằng vách kính dày, mưa càng lớn thì khách ngồi bên trong càng cảm thấy ấm áp, khô ráo, nhưng tôi thì đã thấm lạnh, khó chịu trong người, mặc dù máy lạnh chỉ ở mức điều hòa không khí. Co ro trước tách café nóng và mơ mơ màng màng qua những vờn khói thuốc, tôi chợt nhận ra người con gái đang ngồi kề bên chợt xinh đẹp diệu kỳ. Từ ánh mắt lúng liếng, nụ cười thẹn thùng, suối tóc mây êm ả, cho đến chiếc áo dài – vừa huyền hoặc như chợt thoát ra từ lời hát thiết tha của bản Ngàn Thu Áo Tím, vừa thẳng thớm, tề chỉnh như đang được mặc trong vũ hội – tất cả như chợt hợp điệu thành một vẻ đẹp toàn bích, trang trọng đến tuyệt vời. Chính là cơn mưa lớn đã dửng dưng làm tôi ướt át, khổ sở, nhưng đổi lại, mưa lại hào phóng nâng lên vẻ duyên dáng của người con gái – cái bờ bến yêu kiều, bình yên, tạnh ráo mà gã thư sinh mấy độ phong sương, lạc nẽo lý tưởng chỉ mong được phép ghé vào tá túc, tìm chút hơi ấm nồng nàn trong cơn mưa gió.
Sâu xa hơn thì tình yêu có một loại phong vũ biểu đặc biệt dành cho ai đó – rất riêng tư mà sẵn sàng hòa điệu với mưa trời. Lời xưa có nói: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách / Sắc bất ba đào dị nịch nhân”, tạm dịch là “Mưa trời đâu có kềm trói ai nhưng vẫn có thể giữ chân người và sắc đẹp đâu có sóng to (ba) sóng nhỏ (đào) đâu mà vẫn nhấn chìm người”. Trời chợt đổ mưa thì có thể gây khó khăn, trễ nãi cho ai đó chứ đối với những đôi tình nhân, đi uống cà phê với nhau lỡ trời mưa và mưa lại kéo dài thì… càng tốt thôi! Đôi lứa yêu nhau cứ lấy cớ trời mưa giữ chân họ mãi trong quán, nên họ phải… tha hồ ở bên nhau mà tình tự, nghĩa là mưa càng kéo dài thì càng ơn ích cho những cặp tình nhân. 

3.
Bởi chút hạnh phúc nhỏ bé mà ai cũng có thể tìm thấy ở những tách cà phê nhâm nhi dưới mưa như thế, sau bao năm tháng cà phê cà pháo với nhau, hằng năm hễ đến lúc giữa thinh không chợt có sấm chớp báo hiệu cơn mưa đầu mùa xuất hiện thì đám bạn già chúng tôi thường vội vàng rủ rê, hú gọi nhau, nán chờ nhau họp mặt ở một quán cà phê quen, càng đủ mặt càng ấm cúng thân tình bè bạn. 

PHẠM NGA
(Cuối mùa mưa 2018)


Friday, December 7, 2018


                                Cuối Mùa


      ỐM
     (Nguyễn Linh Quang)

    Hãy ốm một lần cho hả dạ,
    Nhức xương, ngực tức hay váng đầu,
    Cơn cảm cúm của ngày đông buốt giá
    Lấn sang mùa dị ứng bụi phấn hoa.
    
    Hãy ốm thử xem, nằm lăn lóc,
    Kêu tên người như tụng những hồi kinh,
    Bàn tay xanh xao nổi mờ gân ngọc
    Khoả không gian tù hãm giữa căn phòng.
    
     Hãy ốm, và ôm tình oà vỡ,
    Vung mảnh hồn ra tám phía, bốn bên,
    Gieo vi khuẩn vào tim người bỡ ngỡ,
    Truyền nhiễm nỗi buồn, truyền nhiễm thơ.

    Choisy-le-Roi
    29.02.2000

Sunday, December 2, 2018


                                       Ký Ức Đen        
    
                     dựng hồn thơ sống dậy
                     tiền kiếp nào
                     trấn yểm tử sinh bùa
                     có phải thế
                     nên thơ tỉnh thức
                     giữa oan khiên
                     bi tráng đời này
                     vài nét chân dung
                     trở thành ấn tượng
                     cấy vào tôi
                     để mãi yêu người.

Chút thoáng qua
trong nỗi nhớ đầy

(Gởi Khôi Việt và Nguyễn thị Nhật Tân)

Dường như tôi vừa cúi xuống nhặt chút ngậm ngùi, bạn tôi, bạn bạn tôi.
Nói như thế có hơi đường đột chăng? Nhất định là không vì từ chiếc bàn con trong quán cà phê góc vườn, tôi nghe như có tiếng đời lay gọi. Tiếng hát nào như sương khói bồng bềnh, lời ca nào trầm ấm như được ủ trong màu áo len hồng thiếu nữ. Tôi như lênh đênh trôi theo làn khói thuốc, như tự dấu chút tình riêng trong từng giọt cà phê rơi thảng thốt
Đêm qua, ngày tới, tiếng chim hót đầu hồi, mùi cà phê parisien ngào ngạt, có tiếng đàn dịu ngọt của Bram nhẹ vén màn sương, thoảng nghe từ mái che góc quán, quán nhỏ,  nhỏ lắm. Nhỏ như trong khu rừng cổ tích xa vời.

Chủ khách dường như không còn phân biệt nữa, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tư. Khói thuốc vờn bay qua cổ cầm trên giá dựng chỉ là một vật dụng trang trí, nhưng dường như làn khói mỏng kia lại vô tình hay hữu ý mà chạm đến những sợi dây đang im tiếng, tôi thoảng nghe tiếng nấc của đàn như buồn cho thân phận mình đã trở thành quá khứ. Khác gì chúng tôi, những đời lính lưu vong lỡ vận, từ mọi hướng đời vẫn nhưng nhức chút niềm riêng. Chút an ủi của những anh em rã nghé tan đàn là vẫn còn tìm lại chút dư hương ngày cũ qua sợi dây thân ái níu đời nhau.
Lần hạnh ngộ hôm nay chính là sợi dây vô hình ấy. Vô hình nhưng chất ngất hữu tình
Tôi, tôi là ai, có khoảng cách nào giữa tôi và gia chủ hiếu khách, dường như không hề có.
Họ nhập vào tôi và tôi tiếc thay chưa được một chút nào như họ. Hào sảng tạo ra niềm khoái cảm khiến tôi ngây ngất. Cuộc rượu đêm dường như chưa dứt vì trong nỗi nhớ riêng mình tôi ngỡ vẫn đang say.
Quý thay, duyên tình văn nghệ, vẫn thường làm người xích lại với người. Vui thay trước ống kính vạn hoa của đời đang chiếu rọi, tôi tìm lại được một chân dung. Có chút gì bi tráng mà trong nụ cười kia vẫn ẩn chút bùi ngùi.
Đen và trắng, tôi chỉ thích thế, đi cùng tận trong sắc màu hội họa vẫn chính là đen trắng không màu. Người cầm cọ ai cũng phải hiểu như thế, và người cầm bút vẫn phải luôn cân bằng chữ nghĩa của mình từ chỗ sắc không.Và dưới ống kính của người săn ảnh thì trắng đen làm rõ những bi ai muôn mặt đời này.

Cám ơn, tôi biết cám ơn ai, vì tất cả đều tràn đầy ơn nghĩa. Chỉ có chút niềm riêng gởi chung, nhưng chính là riêng tặng mỗi người với hoài mong hoa bằng hữu vẫn bốn mùa nở rộ và thơm ngát hương đời- những đời lưu vong không nói lời mạt vận.

Ơn đời còn mãi quanh đây
Xa gần khoảng cách như mậy trong đời
Ngày nối ngày mấy cuộc chơi
Còn nguyên tình nghĩa vẫn mời gọi nhau
Đâu cần phải nói ngàn sau
Nhật tân hoa nở thắm màu Việt nam
Quê hương hai chữ nhẹ nhàng
Sao nghe nhưng nhức mỗi lần nhắc qua,
Cám ơn hạnh ngộ chưa xa
Cho tôi tìm được quê nhà dể thương…

Có những dặm dài nỗi nhớ mà mỗi người không thể nào quên, có những con đường đã một lần đi qua là ghi sâu trong ký ức. Có những nơi chốn mà chỉ tạm trú qua đêm đã là căn nhà thân thuộc.
Đêm qua, vùi sâu tôi vào nhữngng ân tình không lý giải, bằng hữu chưa thân đã cho tôi những bất ngờ không hề nghĩ đến. Đời lưu vong đã không thiếu những người tôi gặp với hững hờ và những hoài nghi, là đồng hương chứ không đồng khói nên làm sao trang trải ân tình. Gia đình Việt nguyễn như dòng suối mát, và tôi như chú cá hồi quay đầu về chốn cũ.
Đêm, đêm hấp hối với riêng tôi, rượu như tràn mặt đất. Tôi thả tôi theo những dòng đời bạn hữu. Những tiếng hát ân tình không cần mặc cả, nỗi niềm riêng vẫn dàn trải trên từng nố thăng trầm. Tôi phải nói làm sao để anh em tôi được hiểu là tôi luôn cúi xuống nhặt nhạnh mảnh vụn từ những chiếc bánh hữu tình. Tôi là người như bạn, nhưng lại là gã lính cũ lưu vong không còn nơi để được gối đầu như kinh thánh đã ngàn năm phán quyết. Lời nguyền như xuyên huyết và lời nguyền cũng là một dải gấm hoa thêu trên những trang kinh bất tử, từ ngàn năm vẫn có giá trị riêng.
Tôi tri ân, ngàn lời khó nói, tiếng đầu môi luôn ngấp nghé những giả vờ.
Tôi muốn nói những lời rất thật, như chai bia chưa lạnh đã cạn rồi, như bầu rượu người chưa hâm nóng chỉ một hớp thôi mà đã chếnh choáng say. Trong men nồng rượu ngọt dường như có ướp hương hoa hữu tình vô hạn khác gì những đóa vô ưu vẫn nở trên môi người thành những nụ cười thơm đậm mùi hương.

Tôi cám ơn, cám ơn tấm lòng hào sảng của gia đình Việt Nguyễn, của những người bạn đồng hành, của những chân tình non trẻ đã cho tôi tìm lại một đêm ấm cúng như lữ hành lạc lối đêm đông được ngọn lửa ấm nồng dẫn lối.
Đã xa hôm qua, tạm biệt hôm nay như chia tay một dòng sông chảy, vì sông có rẽ mấy nhánh đời thì cuối cùng cũng xuôi về biển lớn. Như bạn, bạn tôi phải có ngày tụ nghĩa quê nhà, chắc chắn phải là như vậy, vì trong mỗi chúng ta còn hực lửa tình người, khác gì những con chữ vẫn thủy chung khiêu vũ cùng những đời văn lận đận bên trời.

Chia tay để rồi sẽ gặp 
(Túy Hà) 

Thursday, November 29, 2018



              "Khi Nhớ Về Bà Gi"
              thơ : Trần Hoài Thư ( 11/2018)




Về tập thơ “ Khi nhớ về Bà-Gi” của nhà thơ lính, Trần Hoài Thư
( Nguyễn thị Hồng Hải)
Hình bìa tập thơ” Khi nhớ về Bà-Gi” (*) của nhà thơ, nhà văn chiến sĩ Trần Hoài Thư được  trình bày rất trang nhã, thanh thoát gồm những vệt bút vẽ như những đám mây xanh hồng lướt qua bầu trời phơn phớt tím. 
Màu của hoài niệm.
Khoảng 28 bài thơ, đa số viết theo thể tự do, mỗi đoạn, mỗi câu chất chứa bóng tối của nỗi u hoài, như tiếng thở dài nuốt ngược vào lồng ngực sâu thẳm mà khi anh nhìn lại chặng đường đã qua, nhìn tới con đường xa dịu vợi phía trước, những bất lực lo toan trong chính cuộc sống của mình .. “ Hình như tôi sắp quị rồi !!!” Không biết sẽ bao nhiêu lần hình như nữa, vì hàng ngày, anh phải gượng đứng lên, vịn thơ mà đứng dậy. 
Chỉ một mình. 
Xót xa một mình. 
Những bài thơ cho chị. Bây giờ chỉ là cái bóng lặng lẽ bên cạnh cuộc đời anh. Anh dựa vào đó để tìm nguồn an ủi, để bật khóc, oán than, để cay đắng cho chút hạnh phúc cuối đời không trọn vẹn.
Mỗi bài thơ anh viết cho chị trong nursing home là những dòng lệ nóng được chắt, được vắt kiệt từ trái tim khô héo của người lính già lưu vong.
Ngày lên, đêm xuống, đã bao lâu ? Ba năm, bốn năm..
Anh không còn nước mắt để khóc cho chị, cho anh, cho chính cuộc đời khốn khổ của mình. 

“ Giờ đây thân thể mình khô kiệt
Nhưng mái tóc mình vẫn mun đen
Vẫn mềm vẫn mướt từng chân sợi
Vẫn nghe chừng còn toả mùi hương

Vẫn để trong lòng ta giải lụa
Rất êm đềm trong cõi tang thương”
( Sợi tóc mun)


Mỗi ngày sau giờ thăm chị, đêm một mình trở về căn phòng quạnh hiu. Căn nhà từng sớm chiều bừng sáng theo giọng cười trong trẻo của chị. Bàn ghế, khung cửa sổ, khu vườn  ngày nào xanh ngát bóng cây..Với anh, mọi thứ không dừng lại ở hai chữ kỷ niệm, mà nó chính là những di vật ngậm ngùi dù chị vẫn còn cùng anh chắt chia chút hơi thở khi hoàng hôn sắp chìm vào bóng tối. 
Mỗi ngày, anh không biết đi đâu, về đâu. Anh sợ bóng tối quạnh hiu của căn nhà, sợ nỗi cô đơn bủa vây, sợ nghe cả bước chân mình vang vọng trùng trùng cô đơn. Trái tim anh đã bỏ lại nơi đó, nơi chị một mình trong nursing home với bịnh tật và trăm mối tủi thân. 
Anh sợ phải về nhà..
“Tôi sợ nỗi buồn đâm chém hay bóp cổ tôi nghẹt thở ..
Nhưng tôi biết về đâu bây giờ”

Phần thứ hai trong tập thơ “ Khi nhớ về Bà- Gi “ có 13 bài đánh dấu theo số thứ tự .Dấu chân người lính thám kích dường như đã đi hầu hết các tỉnh miền Trung. Từ Gò Bồi ra Phù Cát, về An Lão trở lại Bình Khê. Đời lính chiến giày saut kê làm gối, poncho làm mền, đêm chờ giặc cùng những vì sao, đêm chập chờn chờ bình minh rộn rã.. 
Anh nhớ đồng đội năm xưa, những người đã vĩnh viễn nằm xuống, những người còn sống rời khỏi trại tù mang trong lòng vết thương không bao giờ lành lặn.
Dù chiến tranh tàn khốc, nhiều mất mát hy sinh nhưng nguồn thơ vẫn chảy miệt mài bất tận trong anh, trái tim người lính chiến.

“ Với chiếc mũ rừng, súng nhẹ và ba lô
Tôi mang thêm thơ vào hồn một người lính trận...”
( Khi nhớ về Bà Gi-1)
 
“ Cám ơn chiến tranh đã tặng tôi một dinh cơ
Mái nhà là bầu trời đầy sao
Vách tường là gạch tầng hùng vĩ
Bầu trời đầy sao giúp tôi trở thành thi sĩ
Mộ bia vây quanh giúp tôi bầu bạn với âm hồn ..”
( Khi nhớ về Bà Gi -3)


Tình yêu thuỷ chung tận sức tận lòng dành cho người vợ hiền, mỗi ngày vào với chị, mỗi ngày ôm thân thể gầy guộc xanh xao của chị mà đau xót thầm thì, an ủi chị cũng là an ủi chính mình.

“ hãy gắng nắm tay, dù những sợi gân câm
gắng nắm lại để giữ gìn em nhé”


Nhưng, dù hoàn cảnh thế nào, anh vẫn gắng gượng, dùng niềm đam mê chữ nghĩa để xoa dịu nỗi thống khổ bất hạnh của mình.
Ở dưới basement lạnh lẽo đó là thế giới của anh . 
Như cây khô hối hả hút nước sợ ngày nắng hạn,  Anh cần mẫn hằng đêm đóng sách, in sách. Hơn 82 bản sách Thư Quán Bản Thảo đã ra đời từ nơi chốn ấy và những ấn bản đặc biệt về thơ, văn cho bạn bè văn thi sĩ. Sách không bán, không quảng cáo. Sách chỉ để tặng bạn bè thân hữu, những người còn nặng lòng với văn chương của miền Nam Việt Nam
Anh tâm sự “ Thư Quán Bản Thảo ra đời để chứng tỏ một sự vững mạnh của một tạp chí giấy, trong khi những tạp chí văn học khác đã theo nhau lần lượt đóng cửa. Sự vững mạnh đến từ tấm lòng, của bạn đọc, của thân hữu, của những người chủ trương.
Những bậc thềm càng lúc càng cao, dù vậy, đến một lúc nào đó, cũng phải làm đôi chân người chùn bước, vì thấm mệt . Đó là luật nhân sinh.
Nhưng giờ thì chưa..”

Thật ngưỡng mộ niềm đam mê và sức làm việc phi thường của anh trái ngược với thân thể gầy gò, gương mặt khắc khổ và mái tóc bạc phơ. 
Và nữa, cũng là duyên, là định mệnh. Trần Hoài Thư là bút hiệu.
Tên anh là Trần Quí Sách .


(*) Đồi Bà Gi, theo trí nhớ 1967-1970. Tháp trên là đỉnh tháp Vàng, nơi đặt đài ra đa của quân đội Mỹ. Tháp giữa là tháp Bạc, để trống. Tháp dưới cùng là tháp Đồng, nơi làm kho đạn dược vũ khí của đại đội 405 thám kích. Một chòi canh bên cạnh tháp Bạc. Doanh trại là mấy dãy nhà tole dựng trên một sân bằng phẳng giữa mỏm đồi.
Bao quanh đồi từ đỉnh xuống chân là hàng rào kẽm gai mấy lớp.
Dù là hậu cứ nhưng chúng tôi rất ít có mặt. Bởi hành quân tăng phái liên miên. Nó chỉ dành cho ban quân số, tài chánh và một câu lạc bộ của đơn vị.
( trích từ ghi chú của tác giả)



Monday, November 26, 2018


       Mùa Thu qua ống kính 
       của Nguyễn Khôi Việt

      Quanh chúng ta..
      là những mùa hạnh phúc.







   


Wednesday, November 21, 2018

                      Tạ ơn
                      Nhạc sĩ : Trịnh Công Sơn
                      Ca sĩ : Khánh Ly

BÀI TẠ ƠN MỘT TÌNH YÊU
(Phạm Ngũ Yên)

Bao nhiêu năm rồi mới thấy lại tình yêu
Khi mái tóc không như ngày xưa ấy
Một khoảnh khắc đôi bàn tay chạm lại
Cũng đủ làm tro nguội cháy bùng  lên

Em bên đường làm một tiếng mưa quen
Tạt anh ướt một góc đời mê muội
Con còng biển cứ mỗi ngày rượt đuổi
Một tiếng cười nghi hoặc phía sau lưng

Những con đường lãng mạn rất rưng rưng
Mặc năm tháng đi qua thời con gái
Cây bàng thả những trái bàng thơ dại
Chiều theo em chiều cũng tím không ngờ

Ở nơi nào em vẫn biển xanh xưa
Có nghe sóng vỗ hoài lên ký ức?
Một chút đêm đau một chút ngày hạnh phúc?
Một nơi nào em vẫn vậy, phòng không …?

Hãy ủ buồn cho chật một mênh mông
Cho sông chở phù sa làm mặn biển
Những cánh buồm ra đi không chịu về bến hẹn
Những lời chim rớt mãi một âm thừa

Vì cuộc đời không từng những cơn mưa
Không có cả những màu hoa đã nhạt
Nên gió mỏng đủ làm bay đi mất
Một lời yêu viết vội giữa trang đời

Đêm ngủ vùi nghe lạnh giọt mồ hôi
Trên khuôn ngực tái xanh ngày bão rớt
Gã đàn ông chưa trưởng thành bất chợt
Soi kính đời tìm sợi tóc … mười lăm!

Mùa thu này ghi xuống một xa xăm
Cái gì hôm qua mấy ai còn nhớ lại
Giữa những môi thơm là mắt thuyền ái ngại
Giữa ngây thơ là rỉ máu tim cười

Có những điều không thể nói bằng môi
Nên vô vọng một tình yêu trốn bắt
Một sáng mai nhìn lui một xế chiều ngây ngất
Mùa thu này tìm một lá xanh rơi …

Sân nhà ai cây sứ rụng hoa rồi
Ai ngóng đợi tiếng phone làm mất ngủ?
Sau niềm vui là nỗi buồn trú ngụ
Sau tiếng cười là tiếng khóc im im.

Tạ ơn đời và cũng tạ ơn em
Làm anh té trên những ngày cơm áo
Hạnh phúc mong manh giữa tháng ngày hư ảo
Còn hạnh phúc nào …
Đang chạm đến em không???

tháng 11 2015
Phạm Ngũ  Yên  
Trích trong thi tập Tháng Giêng đâu đó một bờ môi )    

Saturday, November 17, 2018



                               Yellow bird by Brothers four 

Yellow Bird 
Thơ: Oswald Durand (1883)
Phổ nhạc : Michel Mauléart Monton ( 1893)

Một bài hát mà thoạt nghe cứ tưởng chừng như là một khúc nhạc đồng quê của Mỹ. Khi giai điệu được đánh với hạ uy cầm, người ta lại thấy giống như một khúc dân ca hải đảo Hawaii. Nhạc phẩm Yellow Bird thật ra là một bài hát của người Haiti, quần đảo Antilles nằm trong vùng Caribê, thuộc hệ ngôn ngữ La Tinh. Trong tiếng Việt, bài hát cũng từng được tác giả Nam Lộc dịch thành nhạc phẩm ‘’Chỉ là giấc mơ qua’’.

Yellow bird ban đầu là một bài thơ do tác giả người Haiti Oswald Durand viết vào năm 1883, mãi đến những năm cuối thế kỷ XIX, bài thơ này mới được tác giả Michel Mauléart Monton phổ nhạc, văn bản còn lưu lại ghi chép là vào ngày 14 tháng Năm năm 1893 . Trong nguyên tác (với tựa đề là Choukoun),được viết bằng tiếng créole, thổ ngữ địa phương.

"Choukoun" là một cái tên âu yếm mà nhà thơ thường hay dùng để gọi tình nhân của ông. Ngoài đời, đây là một nhân vật có thật : cô Marie Noël Belizaire là chủ một quán ăn ở Cap-Haïtien (Cape Haitian), nơi nhà thơ Oswald Durand thường hay lui tới. Trong phần điệp khúc, nhà thơ gọi tình nhân của mình là ‘’cánh chim bé bỏng’’ (trong tiếng créole, hai chữ "ti zwazo" rất gần với tiếng Pháp là ‘’petit oiseau’’).

Với thời gian, bài hát trở nên quen thuộc đến nỗi người dân đảo Haiti xem đó là một khúc dân ca truyền thống của xứ họ. Trong tiếng créole, bài hát này được dàn nhạc của Katherine Dunham ghi âm lần đầu tiên trên đĩa nhựa vào năm 1946. Giai điệu này cũng được chọn vào năm 1949 để biểu diễn nhân lễ ăn mừng 200 năm ngày thành lập thành phố Port-au-Prince, thủ đô Haiti.
Mãi đến năm 1957, bài hát này mới được đặt lời tiếng Anh và do ban hợp ca Norman Luboff ghi âm lại trên tập nhạc mang tựa đề Calypso Holiday. Lời bài hát tiếng Anh là của hai tác giả Marilyn Keith & Alan Bergman, và ở đây tựa đề Yellow Bird (Cánh Chim Vàng Anh) được đặt cho êm ái xuôi vần, thật ra, chứ không có ăn nhập gì với phiên bản chính gốc. Bằng không thì có lẽ phải gọi là ‘’Little Bird’’.

Trong bài thơ, tác giả người Haiti Oswald Durand cũng không nhắc tới màu sắc của cánh chim. Đến khi chuyển ngữ sang tiếng Anh, hai vợ chồng tác giả liên tưởng tới loài chim vàng anh, dùng cách gọi nôm na mà tượng thanh, lặp đi lặp lại như tiếng chim hót trên khóm chuối xanh. Về cấu trúc, bài Yellow Bird lược bỏ câu đầu và bắt đầu thẳng bằng điệp khúc. Lời tiếng Anh do là lời mới, chứ không dựa vào nguyên tác, cũng không cần phải chính xác trong từng chi tiết : loài chim vàng anh chủ yếu sống ở các vùng thảo nguyên hay rừng phong miền ôn đới, chứ hiếm khi nào được tìm thấy trên các hải đảo vùng nhiệt đới.

Vào năm 1959, phiên bản của bốn anh em thuộc nhóm Mills Brothers giúp cho bài hát Yellow Bird trở nên ăn khách,  nhờ vào chất giọng trung trầm truyền cảm của Harry Mills, cũng chính là người mà sau đó có ảnh hưởng rất nhiều tới giọng ca crooner Dean Martin. Kể từ đầu những năm 1960, bản nhạc Yellow Bird trở thành một bài hát  được nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trong làng nhạc quốc tế ghi âm lại và đưa vào trong các đợt biểu diễn của họ. Trong số các phiên bản nổi tiếng nhất có phần trình bày của nhóm The Brothers Four (nổi tiếng không kém gì bản Đồng Xanh Greenfields) chơi với bộ ghi ta gồm bốn cây đàn.

Nam ca sĩ Chris Isaak trên album mang tựa đề Baja Sessions dùng hạ uy cầm để thổi vào trong ca khúc một luồng gió đến từ hải đảo hải đảo Hawaii. Nghệ sĩ kiêm tác giả người Anh Roger Whitaker hát bài này như dân ca (folk) nhưng phối hợp hoà quyện thêm với mộc cầm và dùng tiếng sáo ‘’phản cung’’ tựa như tiếng chim vàng hót trên đọt chuối non. Một số ca sĩ khác thì lái hẳn bài này sang thể điệu bolero ritmico, xa lánh dần trong lối ngắt nhịp, tách câu với ca khúc nguyên tác.

Khi nghệ sĩ người Haiti Michel Mauléart Monton phổ nhạc bài thơ nổi tiếng của tác giả đồng hương Oswald Durand, ông có ghi rõ là bản nhạc được đánh theo điệu merengue, thể điệu truyền thống của Haiti và chậm hơn cả bolero cubano. Nhưng tới khi bài hát này có thêm lời tiếng Anh, thì hầu hết các nghệ sĩ lại phối theo điệu calypso.

Phần lớn cũng vì vào năm 1957, nam danh ca người Mỹ Harry Belafonte từng ghi âm lại bài này nhưng với tựa đề hoàn toàn khác hẳn là nhạc phẩm Don't Ever Love Me, lời tiếng Anh của tác giả Lord Burgess cũng khác với Yellow Bird (phiên bản của cặp vợ chồng nghệ sĩ Marilyn Keith & Alan Bergman). Tuy có phóng tác chuyển ngữ, nhưng Harry Belafonte vẫn giữ nguyên cấu trúc của bài hát chính gốc.

Sinh thời được mệnh danh là ông hoàng calypso Harry Belafonte dĩ nhiên đã ghi âm bài này với thể điệu này. Đặc biệt là tại Trinidad Tobago, bài hát thường được phối thêm với bộ mộc cầm và dàn trống thiết, khiến cho calyspo lấn lướt hẳn merengue, cho dù đó là thể điệu mà nhạc sĩ Michel Mauléart Monton đã từng soạn cho nguyên tác. Dù có được ghi âm theo điệu gì đi chăng nữa, bài Yellow Bird nghe vẫn êm ái, dễ đi vào lòng người mến mộ.


Cũng như bản nhạc La Paloma (thể điệu habanera) của tác giả người Tây Ban Nha Sebastián Yradier (1809-1865), bài Yellow Bird là một trong những ca khúc sáng tác vào hậu bán thế kỷ XIX, mà cho tới nay vẫn còn thịnh hành (phiên bản ghi âm gần đây nhất là vào năm 2012). Bồ câu trắng hay chim Vàng Anh..luôn nằm trong trái tim của người thưởng ngoạn.
( trich từ VHNT)

Monday, November 12, 2018


           Tập truyện Đêm Nghi Ngại
           Tác giả Nguyễn Linh Quang ( Cổ Ngư)



ÐÊM NGHI NGẠI
( Nguyễn Linh Quang)


MARGOT
Tin báo tử (tháng 11) :
Roger CLEMENT, 95 tuổi - Jeanne PREVOT, 89 tuổi - Yingfei SHEN, 40 tuổi - Marguerite LORIN, 78 tuổi - Semsha DENDANI, 1 tuổi - Philippe ZANINI, 76 tuổi…

RANI
Tôi nhìn Sylvia. Bắt đầu đẫy. Cái đẫy đà khó tránh khỏi của những cô gái gốc Tây Ban Nha đã ngoài tuổi hai mươi lăm. Da thịt hình như vội quên đi tính đàn hồi săn chắc thời thiếu nữ. Bợt bệu. Nhớ đến cái chân giò có lần thấy vội trong báo quảng cáo. Tà ma !
_ Vào nằm với em đi !
_ Ðang ramadan.
_ Ðêm lâu rồi, mặt trời lặn từ năm rưỡi chiều…
_ Tôi đã khấn sẽ giữ mình suốt tháng.
_ Vào nằm với em đi. Ôm em thôi !
_ Tôi đã bảo không, là không !
Sylvia vùng dậy, thu mình vào góc giường, lưng dính tường, bưng mặt rưng rức. Ngực trần rung từng chặp. Những giọt mascara đen bẩn len qua kẽ tay, văng lốm đốm lên nền chăn ố._ Em sợ !
Ðể mặc Sylvia với tiếng nấc nghẹn, tôi tránh tấm áo giả lông bèo nhèo trên sàn, bước đến cửa sổ, nhìn xuống đường. Bên trong 22°C, ngoài kia, chắc chưa được đến một phần ba. Tôi nghĩ đến Sylvia, những đêm như vầy, bên ngoài áo khoác dày, bên trong mỏng tang đồ lót, gõ mòn lề đường bằng gót guốc cao, và giữa hai lần đón đưa, phải chống chọi với từng làn gió buốt bằng những điếu thuốc hăng mùi bạc hà dài ngoẵng. Tôi nghĩ đến Sylvia, những đêm như vầy, chắc cần tiền trao tay ít hơn cần một căn phòng được sưởi ấm, với một thân thể đàn ông chà xát, dày vò, hay may mắn hơn, vuốt ve, mơn trớn. Khách quen, tháng đôi ba bận. Khách lạ qua đường. Khách phương xa. Dù sao cũng là thân nhiệt, với một mảnh chăn, một khoảng nệm… Mờ mịt ngoài kia. Thêm gió. Tháp Eiffel cụt đầu trong biển sương cuồng động, từ xa, toả quầng mờ hiu hắt. Ánh đèn đường chỉ vừa soi đủ ngọn hàng cây mới lớn bên kia đại lộ. Mất gốc, lửng lơ, những tụm lá heo hắt cuối thu vật vờ, đứng yên mà như trôi, bơi ngược chiều gió tạt. Tự nhiên, đầu óc tôi lởn vởn câu thành ngữ « Sương mù Luân Ðôn ». Một huyền thoại ? Tôi chưa biết Luân Ðôn, dù Pháp và Anh chỉ cách nhau bằng eo biển Manche hẹp tẹo, dù Paris và Luân Ðôn, từ nhiều năm nay, đã nối tay nhau qua đường xe lửa ngầm xuyên biển, chỉ vèo vài ba tiếng đồng hồ là đã đến nơi. Cũng như cha tôi, từ hơn năm mươi năm nay, vẫn không sao vượt nổi Ðiạ Trung Hải để thăm lại cố hương. Ông đã từng có dịp đi xa hơn thế, Mỹ châu, Á châu, tận cả Úc châu, nhưng mỗi lần nảy ra ý định lấy vé về Maroc, lại trù trừ, do dự, rồi bỏ qua một bên. Hình như, mỗi chuyến đi xa, dù đã được chuẩn bị từ nhiều tháng, nhiều năm trước, vẫn là kết quả ngẫu nhiên do định mệnh dẫn dắt ? 
« Sương mù Luân Ðôn ». Và còn gì nữa, lẩn khuất trong lớp hơi nước mờ đục kia ? Lại thêm những huyền thoại, người hoá sói, hoá Jack-kẻ-phanh-bụng-đàn-bà, hoá sát nhân, hoá nạn nhân, hoá dơi, hoá cú, hoá tiên, hoá Peter Pan. Không gian trước mặt được đãi qua hai lần kính lọc, ánh đèn vàng và lớp sương đặc, nhận chìm nhiều chi tiết, xoá sạch mọi sần sùi, thô tháp, hoang lạ khác thường. Và tôi, với bao hãm mình khổ hạnh mùa ramadan, có còn phải là tôi nữa không ?
_ Tại sao cô sợ ?
Không có tiếng trả lời. Quay lại, tôi thấy, giữa những tầng thâm đen của chì kẻ, của mascara, của những đêm thiếu ngủ, rực lên cơn sốt động kinh từ đôi mắt đứng tròng, trợn mở.

RÉMY
_ Ðứng lại !
Giật bắn người, Rémy lao chạy. Lộ rồi ! Ðầy truyền đơn trong người thế này ! Tiếng giày bốt rầm rập phía sau. Gắng lên ! Phía trước là công viên. Sương mù bưng cả mắt, hy vọng lọt được vào đó, sẽ thoát. Rémy vượt qua rào chắn, len lỏi giữa những thân cao gốc già vòng tay ôm, những bụi thấp răng rắc cành vụn gãy gục. Tiếng lao xao nhỏ dần, chìm khuất trong màn sương đục. Hít thật đầy. Thở thật chậm. Ép nhịp tim lại. Mười lăm phút, nửa giờ hay hơn một tiếng đã vút qua ? Thời gian có trôi đi không, hay chỉ chầm chậm đong đưa giữa cái không gian đặc sương quền quện này ? Im như tờ. Có khi sự im lặng còn đáng sợ hơn cả những tiếng động khả nghi. Không biết Margot có sao không ? Mỗi đứa một nẻo. Tại sao cô ấy muốn đi cùng mà mình cứ khăng khăng từ chối ? Tại sao trước lúc chia tay, cô ấy lại vít cổ mình xuống để hôn một nụ dài ? Có bao giờ thế đâu ! Lạ thật ! Nóng ruột quá ! Chẳng lẽ cứ nấp mãi trong này hay sao, còn bao nhiêu truyền đơn phải rải. Rémy nhìn qua kẽ lá. Tại sao mình lại liều lĩnh lao vào nơi nguy hiểm ? Yêu nước ? Tinh thần ái quốc được nhắc nhở trong những buổi họp tổ bí mật, với mình, mơ hồ quá, chẳng khơi gợi được gì cả. Tham gia hoạt động, phải chăng vì nhớ đến gia đình David, thằng bạn thân nhất lớp, cha giáo sư đại học, mẹ nhạc sư dương cầm, một ngày bi thảm, nhà cửa đồ đạc bị tịch biên, vợ chồng con cái mất tăm trong trại tập trung dân Do Thái ? Phải chăng vì đọc được tin, nhìn thấy ảnh những thây người gục xuống bên cọc hành hình, ven chân tường, bao ngôi làng bốc cháy, lửa thiêu rụi giáo đường và Chúa và mẹ và em thơ ? Hay, phải chăng chỉ vì muốn tỏ ra xứng đáng với Margot, khuôn mặt đẹp nhất trường, đáng yêu nhất phố ? Không biết. Không rõ. Có thể mỗi thứ một chút, nhào trộn thành mong ước muốn đuổi người Ðức về nước. Người Ðức. Mình có căm thù họ không ? Hình như, không. Chọn tiếng Ðức làm ngoại ngữ. Ðọc Goethe. Nghe Beethoven. Chẳng có lý do gì để ghét người Ðức cả. Nhưng đừng giết, đừng bắn, đừng hại ai nữa, bọn sát nhân súng cầm trên tay kia… Ðêm vẫn lặng, khét ngốt mùi diêm sinh. Trời gầm gừ sấm động. Và sương. Tẩm ánh đèn đường bệnh hoạn, nhờ nhờ vàng. Phải đi thôi. Ðợi đến lúc sương tan hay ngày rạng thì khốn ! Len người khỏi bụi rậm. Xổm ngồi. Nghe. Im. Nhìn. Vắng. Một bước. Tiếng cành lá lách tách dưới chân. Không động vọng. Hai bước. Ba bước. Thoăn thoắt chạy. Nhanh lên, phải xong nhiệm vụ được giao, ngày J sắp đến… Xạch ! Xạch ! Hai bóng đen trồi lên từ lòng đường-địa ngục. Chỉ vừa kịp quay ngược hướng, hai tiếng nổ đanh lạnh bốc gọn Rémy lên theo đà chạy trước khi quật thân mảnh chúi sấp. Ðúng bình minh. Sương trời chuyển màu. Bầm đậm.

SYLVIA
Hắn nhìn chăm chăm. Cái nhìn lạ lắm. Nửa tò mò nửa thân thiện. Như của tụi tỉnh lẻ, hay, của bọn khách du lịch. Không phải cái nhìn lạnh tanh, nhìn-mà-không-thấy của lũ thị dân thủ đô. Cách ăn mặc của hắn cũng buồn cười, cứ như từ trong phim, trong hình những năm năm mươi bước ra. Chắc là một thằng nhóc lập dị, lông tơ còn mướt trên mặt mà lại bày đặt đội bê-rê ! Dấn thêm vài bước, hắn dừng lại. Vẫn cái nhìn đăm đắm. Dưới ánh vàng hắt của đèn đường, vẫn có cảm giác đôi con ngươi của kẻ đối diện xanh trong. Như thuỷ tinh gắn vào hốc mắt hình nhân.
_ Chị vừa dọn về khu này à ?
_ Ưà, gần đúng… Còn chú em ?
_ Tôi sinh ra ở đây.
Dân Paris trăm phần trăm ! Coi vậy mà không phải vậy !
_ Chị đứng đây làm gì ?
_ Tui đứng đây làm gì thây kệ tui ! Chú là cớm hay sao mà khoái hỏi vậy ?
_ Chị đứng đường à ?
_ Ưà, tui là điếm đó, rồi sao ? Chú muốn gì ?
Nóng mặt gằn tiếng, nhưng khi ngó thẳng vào đôi mắt tên nhóc con, chỉ thấy chính bóng mình phản chiếu, rồi nhoà tan giữa ánh nhìn chăm chú, nửa tò mò, nửa thân thiện. Như bóng con bé tóc bum bê xoè áo đầm hãnh diện soi vào lòng suối trong ở một thời rất xưa, tại một nơi rất xa, ấm nắng. Con bé ấy, cũng đã từng có tiếng cười rất dòn, mắt môi đằm thắm, ngực nẩy thanh tân. Con bé ấy, cũng từng có những thằng bé bảnh trai như tên nhóc trước mặt chết mê chết mệt, vậy mà, chỉ một lần thôi, rồi sụp đổ hết, tan vỡ hết. Mẹ, đầu gối đè cứng lên tay con giăng chữ thập, tọng khăn chẹn họng, giữ chặt lấy tiếng thét của đứa gái tơ đang bị phá trinh trên sàn bếp. Phơi thân dưới tay đồ tể. Tên dượng ghẻ hì hục thọc mạnh, đâm sâu, vừa gào vừa tát mẹ, đầu móng cáu bẩn dầu nhớt xe của bàn tay còn lại cào ngấu ngực non. Từ đó, con bé lăn vào đời, máu không ngưng chảy từ vết thương chẳng bao giờ liền miệng. Không căm đàn ông. Không thù dượng ghẻ. Nhưng hận mẹ, cùng những dòng nước mắt tuôn lã chã ngay khi ấy, cả mấy ngày sau. Và có lẽ sẽ chẳng ai hiểu nổi vì sao con điếm khùng lại hả hê cười mỗi lần bị chửi " Ðù mẹ mày ! " Ừ ! Cám ơn ! Làm đi ! Ðừng nói !… Tự nhiên, có nhu cầu muốn kể, muốn trút xả hết mọi điều vào cái hồ thuỷ tinh phẳng lặng kia.

_ Tui dân thứ thiệt nghe chú, không phải như mấy con nhỏ Ðông Âu hay Trung Phi tay mơ đâu ! Mà, mấy năm nay sao xui quá, chú! Dành dụm mua được nguyên chiếc xe camionnette vừa ấm cúng vừa kín đáo để hành nghề, một đêm ngủ quên, đèn cầy bắt vô mùng, cháy rụi, chỉ kịp ôm đầu máu mà chạy thoát thân ! Rồi xuống cấp, đứng đường, nhưng ở mé bên kia kìa, gần xa lộ vành đai, để khách tiện đưa đón. Rồi cũng tại mấy con nhỏ mắc dịch đó cứ đứng lềnh khênh ồn ào giành mối, chặn cả xe qua lại để níu kéo, báo chí truyền hình la-dô nói quá, nên tụi cớm bố ráp lung tung. Bị vạ lây, nên tui phải bỏ qua kiếm ăn ở khu phố này, nhiều bữa, như bữa nay, ế độ, ế chổng cẳng ! Mà, tức cười thiệt, dưng không tui lại kể tuốt luốt cho chú nghe mọi chuyện… Khuya rồi, chú về nhà hả ?
Chiếc bê-rê kéo xuống, xoay xoay trên tay. Tóc gợn sóng, chải lật hết ra phía sau, căng rộng khoảng trán phẳng. Hắn ngập ngừng :
_ Chưa, tôi còn phải đi có việc… Chị biết không, chiến tranh…
_ Hả, chiến tranh hả ? Ở đâu ? Hồi nào ?
Hắn nhìn sững. Như ma nhập. Mắt xoe tròn. Môi mấp máy. Giọng run.
_ Chị hỏi lạ nhỉ ! Sắp hết chiến tranh rồi, hết chiếm đóng, sắp đến ngày trọng đại rồi.
_ Mà, ngày gì ?
_ Khó nói quá…
_ Chú này cứ úp úp mở mở, tui không có khoái cái trò đó đâu nghe ! Có gì cứ nói mẹ nó ra đi, chú khinh, nghĩ mặt tui không đáng bắt chuyện với chú hả ?
_ Ðâu có ! Ðâu có ! Nhưng mà…
_ Thôi, bỏ qua, mới hù chút xíu đã muốn té đái rồi, bắt tội nghiệp ! Nè, nói thiệt đi, chú về nhà hả ? Chú có sống mình ên không ? Tui theo chú nghen ? Ðứng đây nãy giờ, lạnh quá !
_ Tôi đi có việc thật mà, với lại, Margot… Marguerite…
_ Chú có vợ rồi hả ? Mèng ơi, còn trẻ măng vậy mà…
_ Không, Marguerite không phải vợ tôi… người yêu… tôi… tôi yêu cô ấy.
_ Á à, rồi con nhỏ đó có thương chú không ?
_ Tôi… tôi không rõ, chắc là… có.
_ Nhưng mà nó đâu có sống chung với chú, tui cá đó, đúng không ? Thấy chú dễ thương, tui mến. Ðừng lo, tui tặng không chú đêm nay, bù lại, chú cho tui trọ tới sáng, được không ?
Chiếc bê-rê quay tít trên ngón trỏ bàn tay trái.
_ Không được đâu… tôi… Marguerite… Thôi, tôi phải đi đây. Chị đọc đi, sẽ hiểu.
Hắn rút một tờ giấy từ chiếc túi vải đeo chéo người rồi băng qua đường, chạy khuất vào bóng tối, phía góc phố gập thước thợ. Nhìn xuống, lật qua lật lại. Tờ giấy trên tay trắng cả hai mặt, nhàu nhò.

KẾT / MỞ
Ðều nhịp thở. Biết Sylvia đã ngủ say, tôi vẫn tiếp tục vuốt xuôi từng sợi dài mượt. Làn tóc đen thẳng như tóc đàn bà Tàu, đóng khung lấy khuôn mặt trắng bệch, với quầng mắt thâm và đôi con ngươi xanh lạnh ánh thép, Sylvia ma quái cuốn tôi vào trò tình những đêm trăng rực. Tôi, thằng đàn ông ba mươi tuổi, hình như thân thể chỉ thực sự bừng thức quanh vài buổi tròn trăng. Mỗi sợi thần kinh căng tê, chỉ chực tung đứt. Từng bắp thịt co cứng, tức nhức. Sylvia đến, thường, khoảng hai, ba giờ sáng, giải phóng tôi khỏi mọi bức xúc, hứng trọn những xung động dã thú của con đực, đê mê rú rít giữa bao dấu răng, vết móng. Ả điếm thập thành cứng xơ cảm xúc, một tháng đôi ba lần, trải hết mọi giác quan mời tôi lăn lộn trên đó, rồi bất thần, cuốn tròn, khép chặt, để cùng nhau rung lên những tần số cộng hưởng cực đại. Mảng bầm nơi đầu ngực, lằn hằn dài khoảng lưng, những chứng tích nhức nhối nhưng khêu gợi ấy nhắc chúng tôi nhớ đến nhau suốt khoảng thời gian còn lại, khi trăng khuyết dần, mất dấu rồi tái sinh. Từng mảnh da non ngứa ngáy kích thích, bồn chồn thúc dục. Tròn trăng, tròn trăng. Dù mỗi đêm, tôi vẫn đứng từ cửa sổ, nhìn Sylvia gõ gót trên lề đường phía bên kia đại lộ. Tròn trăng. Tròn trăng. Dù da thịt Sylvia đã cọ mài in ấn lên bao thân thể đàn ông những đêm tăm tối, vẫn trinh nguyên toả sáng gọi tôi nhập cuộc đúng thời nguyệt rạng. Vậy mà, đêm nay, trăng chết. Sylvia đến, để làm gì ? Tôi, gã rối gỗ đứt dây, liệt lực, máy móc mãi một động tác chải gỡ mái tóc mượt của con búp-bê vải bông đang ôm gọn trong lòng. Con nộm vải ngấm nước, iủ rũ, phình phều. Vô cảm.
Có tiếng động ở lầu trên. Nặng. Chậm. Bà Marguerite, với chiếc gậy ba chân. Lưng cong gập, như cõng hết tuổi tác, khổ đau, ẩn ức của cả đời dài trên đó. Người đàn bà còm cõi ấy có thói quen khua gậy lọc cọc lúc trời gần sáng, và bao giờ, tiếng động cũng ngừng lại phía cửa sổ. Người đàn bà có đôi mắt bạc màu lạnh băng, gây nơi tôi nỗi ác cảm ngay lần đầu chạm mặt. Cứ tưởng bà có thói quen phân biệt đối xử với dân gốc bắc Phi, nhưng lâu dần, tôi hiểu, tia nhìn hằn thù ấy, bà dành cho tất cả mọi người. Lão gác-dan, một hôm vui chuyện, kể cho tôi và cặp vợ chồng Á châu vừa dọn đến nghe lai lịch của bà cụ. Sinh ra và lớn lên ngay trong ngôi nhà chúng tôi đang sống, có thời, bà cặp kè với một viên sĩ quan Ðức Quốc Xã và theo hắn về nước, vừa kịp trước khi chiến tranh chấm dứt. Mãi gần đây, khi người thân cuối cùng trong gia đình qua đời, bà mới quay lại Paris, thừa hưởng cả một tầng lầu thênh thang, đầy của nả. Cái bĩu môi của gã gác-dan và nụ cười ngô nghê trên miệng mấy người da vàng khiến tôi phải suy nghĩ nhiều hơn về bà Marguerite. Con người ấy, hình như cả cuộc đời gói trọn trong nỗi cô đơn, chỉ còn biết trút hết tình cảm vào lũ mèo trắng quanh quẩn bên chân. Theo cảm nhận của tôi, với bà, đâu cũng là chốn lạ, ai cũng là người dưng. Bà co đầu rúc cánh giữa một chiếc lồng vô hình, đan dệt bằng nỗi nghi ngại, đến cả từ phía bà lẫn phía đối diện. Chẳng ai thấy cần phải cảm thông với ai cả. Mà, như bản thân tôi, hay, như Sylvia đang thiêm thiếp cạnh bên, có chung được với đời, có chung được với nhau chút tình ý nào không, hay chỉ đơn thuần thịt da gào gọi… Tiếng xê dịch, như lệ thường, dần ra phía cửa sổ. Bà Marguerite thấy gì mỗi buổi mờ sáng, bằng đôi mắt hằn học với cả thế gian ? Từ cửa sổ phòng bà, có gì khác hơn khung cảnh tôi từng lướt nhìn qua mỗi ngày, ở đây ? Ðại lộ, hàng cây viền quanh công viên, nhà cửa nhấp nhô và tháp Eiffel vút cao cô độc, đêm đêm rọi đèn quét sáng, ném từng quầng tròn buồn bã vào sương dày, mây đục những buổi nặng trời. Bà nhìn gì, hay chỉ thấy nhập nhoè trước mắt những hình ảnh tuôn trào từ hồi ức cũ kỹ, chập choạng đuổi bắt nhau lúc tàn đêm… Như có tiếng thét nghẹn. Xầm một cái. Thân đổ. Sylvia giật bắn trong tay tôi, mắt trợn ngược, hú hoảng : máu, máu văng đầy áo em ! Xô Sylvia, tôi nhào xuống giường. Chân vướng mớ áo lông dày, chúi nhủi. Chỉ vừa kịp bám tay vào bệ cửa sổ, tia mắt tôi phóng thẳng ra ngoài. Phía bên kia đại lộ, nơi Sylvia thường đứng chờ khách, một bóng nhỏ cũng vừa ngã sấp, chung quanh tung toé bay cuồng những mảnh trắng. Lấp loé lân tinh.            

Paris 01.2004
Nguyễn Linh Quang