Tinh Long( ảnh từ internet)
Phi vụ cuối cùng của một Tinh Long(*)
( Yên Sơn)
Tay run run cầm
tờ phóng ảnh Phi Vụ Lệnh (PVL) cuối cùng đã mờ nhạt – dù sau này đã được ép nhựa
– sau bao nhiêu năm tháng “săm soi” ở mỗi độ tháng tư về hay mỗi lần nhớ bạn bè
xưa, nhớ không gian cũ. Mỗi lần cầm tờ PVL trên tay là y như thấy lại tất cả những
dấu yêu trong dĩ vãng bừng bừng sống lại, có những phút huy hoàng, có vạn điều
cay đắng!
Đã 40 năm qua
rồi nhưng sự xúc động vẫn còn nguyên vẹn khi hình dung từng khuôn mặt, từng giọng
nói, tiếng cười của 9 Phi hành đoàn (PHD), gồm 6 Phi hành đoàn chính thức và 3
Phi hành đoàn túc trực với hơn 80 nhân sự có tên trong tờ Phi Vụ Lệnh cuối cùng
của đêm 28 rạng 29/4/1975. Nhưng đặc biệt nhất là Phi hành đoàn Tinh Long 07 của
Trung úy Trang Văn Thành. Phi hành đoàn rất anh dũng, đã đánh một trận oanh liệt
cuối cùng, rửa hận thay anh em và đã hy sinh cho quê hương dấu yêu trong giờ thứ
25.
* * *
Chiều 28/4
anh em có mặt tại phi đoàn rất sớm và rất đông sau khi phản tặc Nguyễn Thành
Trung dội bom phi trường. Và trong phi vụ lệnh đêm nay, tôi có tên bay với Trung
úy Trần Văn Hiền, Tinh Long 2, sau phi vụ đầu tiên của Trung úy Trang Văn
Thành.
7g30 cất
cánh. Trời chưa tối hẳn. Tuy nhiên, khi chuẩn bị vào Vùng trách nhiệm lúc 8 giờ,
trời đã nhá nhem tối. Hiền ra lệnh tắt tất cả đèn đóm trên tàu, chia nhau canh
phòng không và SA-7.
Chiến trường
hôm nay không xa thành phố bao nhiêu. Được Trung úy Thành bàn giao chiến trường
cho biết là phòng không và SA-7 của địch quân rất dữ dội. Thế là 10 đôi mắt mở
banh để canh chừng từng vuông đất. Chúng tôi lặng lẽ nhập vùng trong đêm tối;
thế nhưng có lẽ chúng đã nghe tiếng phi cơ nên vui vẻ dàn chào một trời đạn
pháo khi chúng tôi chưa kịp bắn một viên đạn nào. Có lẽ trong chiến trận ai
cũng biết là mình chưa khai hỏa mà địch đã phủ đầu thì mức độ sợ hãi đến tê điếng
cả người. Đoàn viên ai cũng muốn TPC khai hỏa để lấy tinh thần, nhưng vì đạn dược
của chúng ta vô cùng quý hiếm nên đành phải chờ cơ hội. Chúng tôi phải liên tục
lạng lách vả mồ hôi và bắt buộc phải tăng giảm cao độ liên tiếp. Địch quân
trong thế thượng phong, đạn pháo liên tục bắn lên như một trời sao, đặc kín cả
không phận. Ở dưới đất, hàng hàng lớp lớp xe vận tải của chúng bật đèn sáng
choang, nối đuôi nhau tiến vào thủ đô như chỗ không người! Tôi chợt ao ước giá
chúng tôi được trang bị bằng bom! Chúng tôi vô cùng phẫn uất nhưng vẫn không
làm gì được vì chúng tôi không thể bắn liều, bắn ẩu ở cao độ không hiệu nghiệm.
Mỗi lần cố xuống thấp nhập trận là phòng không của chúng lại đặc trời, lại phải
lạng lách vả mồ hôi, phải bắn trái sáng chống hỏa tiễn tầm nhiệt, phải tang cao
độ an toàn. Trong suốt hai tiếng đồng hồ trên không phận, chúng tôi hoàn toàn
trong tư thế tự vệ và thụ động, không có lấy một cơ hội nhỏ để bắn trả thù! Tôi
bỗng nghĩ nếu gặp Trung úy Thành Cam-bu-chia chắc đã một mất một còn với lũ giặc
Cộng này rồi. Tôi đã bay với Thành ở nhiều chiến trường nổi tiếng như Đại Lộc,
Thường Đức, Đức Dục ở Quảng Nam; Vùng núi đồi Tây Nguyên khi biệt phái Phù Cát.
Sự gan dạ của Thành có lẽ nhờ tin vào bùa chú, hoặc nằm trên sợi dây chuyền có
nanh heo rừng lúc nào cũng đeo lủng lẳng trên cổ.
Phải nói lần
đầu tiên trong đời đánh trận tôi cảm thấy ê chề, lo âu và bất lực. Không khác
gì một võ sĩ thượng đài mà đã bị người ta trói buộc tay chân. Không ai nói với
ai điều gì nhưng trong ánh mắt của mỗi người là một trời thất vọng và lo âu.
Nguy cơ địch quân đánh chiếm Saigon chỉ có thể đếm từng giờ!
Về tới phi
đoàn, tôi vội vã chạy về cư xá Sĩ Quan độc thân ở gần cổng Phi Long, vì có hai
chú em học trò trọ học ngoài phố được tôi đưa vào trong căn cứ lúc trưa. Mấy
ngày qua, an ninh, quân cảnh được lệnh không cho bất cứ dân sự nào vào trong
căn cứ nếu không phải vợ con của quân nhân trong trại gia binh hoặc phải có giấy
phép đặc biệt. Sở dĩ hai chú nhỏ vào được là nhờ tôi có giao tình đặc biệt với
anh em an ninh, phòng thủ trong căn cứ. Giao tình đặc biệt đó là vì tôi ở trong
đội tuyển volley Không đoàn và là huấn luyện viên võ thuật Không Quân nên quen
mặt với anh em mà có được biệt lệ.
Gần 11g đêm
tôi về tới phòng trọ. Chưa kịp chợp mắt thì phi trường bị pháo kích nặng nề.
Hai chú học trò tranh nhau chui trốn vào gầm giường! Tôi cũng chết điếng khi
nghe tiếng đạn rít xé tai và rớt xuống bên ngoài căn cư xá của mình… nhưng chờ
hoài không nghe tiếng nổ! Tản sáng ra xem mới biết là tử thần từ chối khuya
qua, chiếc đạn hỏa tiễn 122 ly cắm sâu vào lòng đất, đưa một phần đuôi lên trời!
Chưa kịp hoàn
hồn thì nghe cả khu cư xá la ơi ới chỉ trỏ nhau nhìn lên bầu trời. Một Tinh
Long đang bị bắn rơi! Biết chắc là bạn mình nhưng không biết là ai. Tôi bàng
hoàng, xúc động làm tim đau nhói như muốn nghẹt thở. Tôi lên xe tính chạy vào
phi đoàn để xem bạn nào nhưng vừa quẹo ra cổng cư xá thấy súng đạn vất bừa bãi
bên trường huấn luyện tân binh phía đối diện… Tôi chợt nghĩ là anh em chúng tôi
cần súng đạn để tử chiến nếu Việt cộng tràn vào căn cứ. Tôi dừng xe, gom một mớ
súng đạn đem về phòng giao cho hai chú nhỏ. Hai chú học trò khoái chí cầm từng
cái súng lên xem. Tôi chỉ vẽ sơ sơ cách sử dụng và dặn không được bắn ai nếu
không phải là VC, rồi lên xe vọt đi.
Khi chạy gần
tới khu gia binh, tôi lại chợt nghĩ anh em cần thực phẩm cho những ngày tới.
Tôi chạy thẳng lên tiệm tạp hóa của Trung sĩ Ngọn ở khu gia binh – người vừa
bay với tôi đêm qua. Đập cửa mua được mấy bao gạo và mấy chai nước mắm. Tiệm của
Ngọn không có bán gì khác. Tôi nghĩ thế cũng tạm đủ và chạyđem về cư xá xong mới
vào phi đoàn.
Trong lúc
này, phi trường vẫn đang bị pháo kích và người người đang chạy xuôi chạy ngược.
Tôi bất kể, cứ phóng xe trên đường. Khi đi ngang qua khu dinh trại nữ quân nhân
KQ, thấy người ta đang tản thương vì cư xá vừa bị trúng đạn pháo kích, gây thiệt
hại nặng nề. Tôi quay tìm đường khác. Dường như đầu óc tôi lúc này không suy
nghĩ được gì ngoài mấy chữ “mình phải vào phi đoàn”. Tôi không có chủ đích nào
ngoài việc muốn biết bạn mình vừa tử nạn gồm những ai.
Không còn nhớ
lúc ấy là mấy giờ! Thấy phi đoàn ngổn ngang, vắng vẻ và có nhiều dấu hiệu bất
bình thường. Vài người bạn rất ngạc nhiên hỏi tôi “còn chưa chạy nữa sao, người
ta kéo nhau chạy đi hết rồi?” Tôi cố gắng tìm gặp một vài anh em còn lãng vãng,
được cho biết là chiếc Tinh Long bị bắn rơi là của Trang Văn Thành và Tào Thuận.
Tôi nghĩ anh bạn nói lộn tên TPC, vì Thành đã bay Tinh Long 01 rồi. Và nhìn vào
PVL thấy là của ông Phi đoàn trưởng Hoàng Nuôi. Người bạn xác định là khi được
điều động lúc 5:30 sáng, ông Nuôi không đi mà kêu gọi người khác bay thế. Trung
úy Thành còn ngủ lại nên tình nguyện đi, kéo theo Trung úy Tào Thuận là người
trực bay chuyến kế thay cho Thiếu úy Hưởng vắng mặt. Dù tình trạng chiến trường
rất tồi tệ nhưng không ai nghĩ ra Tinh Long phải xung trận sau 6 giờ sáng. Đây
là chuyện bất thường. Vì thế nhân viên các PHD túc trực thường vọt sớm, nhất là
trong tình thế hiện tại. Do đó, ngoài hai phi công nói trên, không ai biết chắc
nhân viên nào và có bao nhiêu người đi trên phi vụ đó cho tới hơn ba chục năm
sau, khi chúng tôi lo việc bốc mộ Tinh Long 07, mới tìm được Thượng sĩ Nguyễn
Văn Chín, người duy nhất nhảy dù, dù không kịp bung trọn vẹn nhưng còn sống sót
Tôi cấp tốc
quay xe về cư xá, vơ vội 2 khẩu M16 và mấy dây đạn, nai nịt súng dao như thường
ngày đi bay, đèo hai chú em lên chiếc Lambretta chạy ra các bãi đậu để tìm phi
cơ khả dụng. Lúc này VC vẫn pháo kích lai rai vào phi trường. Dường như tôi
không có thời gian để sợ nên cứ chạy vòng các bãi đậu của AC119K. May mắn, tôi
gặp được một chú nhân viên phi đạo AC119K, biết tôi tìm phi cơ bay đi nên nói với
tôi, “Trung úy chạy theo em, vì em biết ở đâu còn được phi cơ khả dụng, nhưng
Trung úy cho em theo với nghe”. Tôi mừng ơi là mừng, buồn ngủ gặp ngay chiếu
manh, 3 anh em chạy xe theo sau hắn.
Quang cảnh
phi trường lúc này hoang vắng nhiều; phần thì mọi người đang tránh pháo kích,
phần đã ra đi còn hầu hết đổ dồn ra các cổng để xuất trại. Theo chú phi đạo hết
chỗ này tới chỗ khác; những chiếc khả dụng đã không còn trong ụ. Chú lại gọi
tôi theo để tìm những chiếc hư hại sơ sơ có thể bay được. Dường như tôi không
suy nghĩ được gì hơn là chạy theo chú. Chú chỉ chiếc nào thì tôi nhảy lên phòng
lái xem xét phi cụ và thử quay máy. Có chiếc máy nổ nhưng không có xăng; chiếc
có xăng nhưng các phi kế đều hỏng… Sau cùng, tới sát trạm hàng không quân sự,
chúng tôi tìm được một chiếc như ý nguyện. Việc đầu tiên là xem tổng thể, leo
lên cánh coi mực xăng hai bên, vào phòng lái quay máy, thử hai ống phản lực… tất
cả đều hoạt động “có vẻ” bình thường, chỉ có vài phi kế không quan trọng có kim
chỉ vạch đỏ… Có lẽ không còn chọn lựa nào tốt hơn trong khi thời gian đã gần
trưa, tôi quyết định ra đi với chiếc phi cơ này.
Đang gấp rút
xem xét lần cuối cùng và không biết chú phi đạo đi đâu mất tiêu trong lúc hai
chú em chở nhau trên xe chạy quanh bãi đậu. Tôi ra dấu bảo hai chú lên tàu. Bỗng
nhiên thấy chú phi đạo trở lại với chiếc xe hơi màu trắng, hai chỗ ngồi, mui trần.
Chú nói “thôi ông thầy tự lo lấy nghen, em có được chiếc xe này chắc người ta bỏ
lại, em cần chạy về nhà đưa Ba Mẹ em vào trong này. Chúc ông thầy may mắn.” Tôi
chưa kịp phản ứng thì chú đã chạy đi mất. Cùng lúc đó hai chú em cũng nói “thôi
anh Tư chạy một mình đi, tụi em cũng về tìm Ba Mẹ”. Nói xong hai anh em chở
nhau chạy biến về phía cổng Huỳnh Hữu Bạc. Tôi hoảng hốt tắt máy, nhảy xuống đất
vừa chạy theo vừa kêu gọi hai chú em trở lại nhưng không kịp. Hai chú đã mất
hút trong dòng người ùn ùn kéo ra cổng. Tôi đứng chôn chân bên hông trạm hàng
không…
Đang lúc ngẩn
ngơ, tiến thối lưỡng nan, tôi chợt thấy một toán người vừa ở các bunker gần bên
xuất hiện và vội vàng lên chiếc tàu của tôi, họ quay máy vọt đi. Tôi la lớn, chạy
theo đứng chặn trước mũi máy bay đưa hai tay cản lại, ra dấu tàu này của tôi…
nhưng con tàu cứ sấn tới, bất kể sự an nguy của tôi. Tôi nhảy tránh sang một
bên nhìn theo con tàu vội vã băng về hướng phi đạo. Thật ra tôi đã nhận diện được
cả hai pilot cướp tàu của tôi, họ là đoàn viên Tinh Long chung đơn vị chứ đâu
phải ai xa lạ. Tuy vậy, sau này liên lạc lại nhau ở Mỹ, tôi có hỏi họ tại sao
tàn nhẫn lấy tàu của tôi đi mà còn không cho tôi đi theo… nhưng dĩ nhiên cả hai
đều chối là không phải họ! Tôi nói với họ “nói là nói chơi cho biết chứ tôi
hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh lúc đó; hơn nữa tôi cũng còn sống nhăn ở đây”.
Tuy nhiên, rất có thể họ mang mặc cảm nặng nề nên bao nhiêu lần chúng tôi tổ chức
Tinh Long Hội Ngộ ở Texas và California vẫn chưa thấy hai người này về tham dự.
Tôi đứng ngó
đoàn người chạy ra cổng một lát. Tự nói với mình là bằng mọi cách phải rời khỏi
nơi này, rời khỏi Saigon. Kinh nghiệm Cộng sản mà Ba Mẹ tôi đã nói cho lũ anh
em chúng tôi từ nhỏ “Cộng Sản là những con người không tim óc; là hiện
thân của lọc lừa, dối trá, trả thù và giết chóc”. Phi trường đã vắng
người, pháo kích cũng đã ngưng nhưng tôi không còn phương tiện để đi đâu… Đang
bước ngập ngừng vô định thì thấy hai chú em xuất hiện “Anh Tư, họ không cho ai
ra hết. Quân cảnh bắn dưới chân làm mọi người chạy ùa trở lại!” Tôi mừng muốn bật
khóc. Ba Mẹ và các anh chị em của tôi không biết bây giờ ở đâu, ra sao. Tôi đã
không thể về thăm gia đình gần hai năm qua và hơn hai tháng nay không thể liên
lạc được. Đại gia đình chỉ còn lại 3 anh em ở đây, nhất định phải sống chết có
nhau. Tôi cầm tay lái tính chở hai chú em chạy quanh các bãi đậu phi cơ khác cầu
may để xem có chiếc nào sắp cất cánh hay không.
Vừa chuẩn bị
chạy đi thì nghe tiếng gọi to sau lưng: “Th. ơi chạy theo anh, anh cần
co-pilot”. Vừa lúc một chiếc pick-up màu xanh của KQ vượt qua mặt do Th/t Phan
Vũ Điện cầm tay lái và chở trên thùng đằng sau một số người gồm có cơ phi và áp
tải. Tôi mừng như bắt được vàng, chạy vụt theo tuốt bên bãi đậu phía đông bắc
phi trường gần trạm hàng không dân sự.
Tôi không còn
lòng dạ nào để nhìn cảnh hoang tàn của phi trường trong lúc này. Chúng tôi
phóng xe như điên đến bên chiếc C.130. Tôi dẫn hai chú em vọt lên cửa pilot,
thu xếp cho hai chú ngồi yên một chỗ. Tôi lên phòng lái ngồi vào ghế hoa tiêu
phụ, lướt qua cuốn checklist trong khi anh Điện quay máy và de ra khỏi ụ. Anh
áp tải Hoàng nói là người ta nhảy lên tàu nhiều quá. Anh Điện ra lệnh vừa chạy
vừa đóng cửa đuôi vì tình trạng phi cơ không hoàn hảo sợ không kham nổi trọng
lượng quá tải. Anh tống ga chạy như giặc đuổi sau lưng. Chúng tôi ra phi đạo
ngay ở taxiway đầu tiên, khoảng nửa sân chứ không có giờ tới cuối phi đạo như
bình thường. Anh Điện tăng ga tối đa, nhả thắng, chiếc phi cơ lao về phía trước
như con voi điên bất kham. Tôi phụ anh Điện giữ vững cần lái. Trên mặt phi đạo
có một vài nơi có đồ đạc vung vãi. Vừa chạy vừa tránh… gần tới cuối phi đạo mà
vẫn chưa lấy đủ tốc độ bình thường để cất cánh… Trong lúc tôi và một số sĩ quan
có mặt trong buồng lái xanh mặt thì anh Điện nhẹ nhàng nâng con tàu lên khỏi mặt
đất hướng về hướng trường đua Phú Thọ. Thân tàu rung rất mạnh, chứng tỏ chưa đủ
tốc độ an toàn. Anh Điện cố gắng bay lài lài lên chứ không nâng cao độ nhanh
như bình thường được. Tôi bàng hoàng nghĩ thầm “chắc chết phen này vì rớt máy
bay, đi không ai tìm xác rơi rồi đây!” Đã vậy, chúng tôi bắt buộc phải quẹo
trái bay về hướng Vũng Tàu ngay lập tức, nếu không sẽ bị phòng không của Việt Cộng.
Anh Điện không dám cua gắt vì sợ mất lực nâng. Cũng may, C.130 có 4 động cơ bán
phản lực nên rất mạnh. Tàu rung một lúc thì trở lại bình thường, giúp chúng tôi
bốc mình lên cao độ an toàn bay thẳng ra Vũng Tàu.
Lúc này tôi
khá bình tĩnh, thấy thần chết đã bận đi nơi khác. Tôi nhìn đồng hồ tay thấy hơn
1 giờ chiều. Mở tần số không lưu, nghe loạn xạ những lời bàn tán, lời hướng dẫn
cộng thêm ý kiến, ý cò của mấy ông sĩ quan cao cấp tháp tùng đang trong phòng
lái… người muốn xuống Côn Sơn cùng với vợ con được di chuyển từ sang sớm, kẻ muốn
qua Bang-Kok tỵ nạn; người muốn đi Utapao Thái Lan, kẻ muốn đáp xuống biển
(ditching) để Hạm Đội 7 cứu… làm cho anh Điện điên đầu nổi sung hét lớn. Cuối
cùng mọi người đi đến một thỏa thuận chung là đáp Utapao theo hướng dẫn của bạn
bè trên tần số đang bay về hướng đó.
Sau hơn hai
tiếng đồng hồ từ lúc cất cánh, đi Vũng Tàu vòng qua Utapao, chúng tôi đáp xuống
phi trường này khoảng hơn 3 giờ chiều ngày 29/4/1975. Mọi người thở phào nhẹ
nhõm đã được tai qua nạn khỏi khi con tàu chạm bánh xuống phi đạo an toàn và chạy
bang về trạm tiếp liên. Máy bay vừa tắt máy thì đã có một toán lính Mỹ bước lên
tàu, lục xét và tịch thu tất cả vũ khí có trên tàu trước khi được hướng dẫn xuống
máy bay. Hơn 100 nhân mạng nối đuôi nhau theo một binh sĩ Mỹ hướng dẫn nhập
đoàn tỵ nạn. Chúng tôi vừa rời máy bay thì lại thấy một toán quân nhân khác bắt
thang cao sơn bỏ tất cả cờ VN và bảng số tàu. Tôi ngậm ngùi nhìn hành động đó
mà khóc thầm “thế là hết, miền Nam đã bị xóa sổ”!
Vâng, Miền
Nam đã bị xóa sổ sau đó không đầy nửa ngày! Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng qua làn sóng điện nghe được ở trại Utapao làm cho nhiều người bật khóc gồm
có tôi. Tôi nghĩ nhiều đến Ba Mẹ và các anh em không biết bây giờ lưu lạc nơi
đâu. Nghĩ tới người vợ hứa hôn chỉ ở cách tôi không hơn 6 cây số mà không thể
mang theo được. Thế là hết, vĩnh biệt Saigon, vĩnh biệt người thân, vĩnh biệt đời
chim, cánh gió! Tôi lặng lẽ khóc như chưa từng được khóc! Khóc cho tôi bơ vơ
không biết mai này đời sẽ về đâu; khóc cho bạn bè vừa nằm xuống sáng qua trong
phi vụ cuối cùng bảo vệ thủ đô!
Yên Sơn
( *)Trích trong tập truyên Mưa Nắng Bên Đời, xuất bản năm 2018
Ghi chú
thêm:
Tinh Long là
biệt hiệu của Phi đoàn 821. Là một trong hai phi đoàn vận tải tác chiến thuộc
Không đoàn 53 Chiến Thuật, trực thuộc Sư đoàn 5 Không Quân VNCH, đóng tại phi
trường Tân Sơn Nhất, cách trung tâm thủ đô Saigon 6 cây số về hướng tây bắc.
Phi đoàn Tinh
Long có khoảng 300 nhân viên phi hành; là phi đoàn có quân số đông nhất trong
ngành bay. Ngoài căn cứ chính ở Tân Sơn Nhất còn có hai biệt đội luân phiên yểm
trợ cho Vùng I đặt tại phi trường Đà Nẵng và Vùng II ở phi trường Phù Cát.
Sau hiệp định
Paris 1972, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, Không Quân Mỹ đã trao cho
KQVNCH khoảng 16 chiếc AC119K còn lại, vận tải vũ trang tân tiến nhất mà họ đã
mang vào VN từ cuối năm 1969 và đầu năm 1970 để tham dự các trận chiến quy mô
nhằm chống biển người, xe tăng và những đoàn xe tiếp liệu của CSBV dọc đường
mòn Trường Sơn. Trong số 26 chiếc mang vào chiến trường, thực ra chỉ có 18 chiếc
khả dụng.
Được chế tạo
đặc biệt cho chiến trường Việt Nam bởi hãng Fairchild-Hiller, hoàn tất vào cuối
năm 1969. Chiếc AC119K có chiều dài 26.3 mét, chiều cao 8.1 mét và độ sãi của
cánh là 33.3 mét. Hình dáng như một chiếc hộp bay; KQ Mỹ đặt cho biệt danh là
Flying boxcar và KQVN gọi đùa là “quan tài bay”. Có 2 chong chóng với công suất
mỗi chiếc là 3500 mã lực và 2 ống phản lực J-85 cực mạnh dùng để mang khối sắt
khổng lồ (18,000 kg empty hoặc 29,000 kg full load) bốc mình lên trên không
gian
AC119K còn có
tên Stinger nữa; có lẽ người ta muốn nói tới hỏa lực và sự hiệu nghiệm của nó đối
với chiến trường VN. AC119K được trang bị 4 cây đại liên minigun 6 nòng, với
31, 000 viên đạn mỗi cây cộng thêm 2 cây đại bác 20 ly 6 nòng, M61AI; mỗi cây với
4500 viên đạn nổ lại khi va chạm. Ngoài ra, AC119K cũng được trang bị một viễn
vọng kính (NOS/NOD – được trông coi bởi một sĩ quan chuyên môn) có sức khuếch đại
hai triệu lần ánh sáng trăng sao để nhận diện mục tiêu và một đài radar hồng
ngoại tuyến (FLIR/IR – được trông coi bởi một sĩ quan chuyên môn khác) để dò
tìm và theo dõi mục tiêu trong đêm tối; một hệ thống phóng trái sáng có độ mạnh
20 ký lô Watt, tương đương 1 triệu rưỡi sức ánh sáng đèn cầy có thể soi sáng tỏ
một sân vận động to lớn trong đêm đen. Tuy nhiên, ở chiến trường VN không sử dụng
loại trái sáng này cho mục đích thật sự của nó mà chỉ dùng để chặn đường hỏa tiễn
tầm nhiệt, SA-7, của địch quân nhắm vào phi cơ. Cũng may, Tinh Long chỉ hành
quân ban đêm nên có phần tương đối dễ để nhận diện vị trí phòng không và đường
đi của SA- 7 để tránh.
Theo sách vở,
AC-119K’s rất hiệu nghiệm cho cả đại liên 7.6 ly và đại bác 20 ly ở cao độ
3,500 bộ khi yểm trợ hỏa lực cho quân bạn hoặc chống biển người; 5,500 – 7,000
bộ dùng để chống chiến xa và các đoàn xe tiếp liệu.
Mỗi PHD Tinh
Long có 10 nhân viên, 5 sĩ quan và 5 hạ sĩ quan gồm: 1 Hoa tiêu (Trưởng phi cơ
“TPC”), 1 Hoa tiêu phó: (Co-pilot “CP”), 1 Điều hành viên (ĐHV), 1 NOS (Night
Observation Sight); 1 IR (Infrared Radar-Hồng ngoại tuyến), 1 Cơ phi (Flight
Engineer), 1 Áp tải (cũng là IO: Illuminator Operator), và 3 Xạ thủ phi hành
(G: Gunner).
Mỗi đêm Tinh
Long có 8 phi vụ gồm 6 phi vụ chính thức từ 6g chiều đến 6g sáng; và 2 phi vụ
túc trực (hai phi vụ này được điều động hay không cũng còn tùy nhu cầu chiến
trường). Mặc dù nhiên liệu đủ để một chiếc AC119K đủ sức bay 5 tiếng đồng hồ liền,
nhưng mỗi phi vụ Tinh Long chỉ trách nhiệm phần không gian của mặt trận 2 tiếng
đồng hồ, chưa kể giờ đến vùng và giờ rời vùng về đáp. Khi phi vụ kế tiếp vào
Vùng nhận bàn giao trách nhiệm xong thì phi vụ trước mới được phép rời vùng.
Tinh Long bay
đêm nên ban ngày hoặc là ngủ bù, hoặc là lo công chuyện bản thân, trừ phi tới
phiên phải trực văn phòng hoặc có những công tác đặc biệt mới có mặt ở phi đoàn
vào ban ngày. Vì thế, dù có cận kề lằn ranh sinh tử mỗi đêm, chúng tôi vẫn được
gọi là “lính thành phố” khi thấy chúng tôi hay “theo em xuống phố trưa nay
đang còn chất ngất cơn say”
Khi tình hình
chiến tranh khốc liệt, mỗi người phải bay 3 hoặc 4 đêm liên tục mới được nghỉ một
đêm. Dù vậy, bổn phận của đoàn viên Tinh Long là mỗi ngày đều phải gọi điện thoại
cho Sĩ Quan trực tại phi đoàn; hoặc vào tận nơi để biết mình có tên trong phi vụ
lệnh hay không. Phi vụ lệnh được Bộ tham mưu Phi đoàn cắt cử mỗi ngày và có thể
được thay đổi theo nhu cầu chiến trường. Phương tiện điện thoại thời gian này
cũng rất hiếm hoi. Chỉ có một số ít ở ngoài phố mới sử dụng phương tiện này,
còn những người sống trong căn cứ là đợi đến khoảng 4 giờ chiều mang theo mùng
mền chiếu gối vào thẳng Phi đoàn. Nếu có tên bay thì ở lại, không có thì vọt về.
Tất cả nhân viên có tên trong phi vụ lệnh đều phải có mặt lúc 4:30 chiều để kiểm
soát mọi cơ phận trên tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến bay trong đêm. Theo
nguyên tắc, ai có tên bay trong đêm thì phải ngủ tại phi đoàn sau khi kiểm tàu.
Bỏ bay hoặc trễ chuyến sẽ lãnh nhận những hình phạt nghiêm trọng. Thế nhưng vẫn
có chàng mắt trước mắt sau là biến mất cho tới lúc lên xe ra tàu.