Tuesday, December 5, 2017



                    Anh Huỳnh Công Ánh, Nguyễn Nhân, Đặng Minh Hùng, 
                    Yên Sơn, Tuý Hà và Hữu Việt


Bè Bạn Thâm Giao 

Hẹn hò mãi... cả hơn hai năm, cuối cùng chúng tôi cũng sắp xếp được để làm một chuyến đi New Orleans thăm bạn bè trong một cuối tuần, trước Lễ Thanksgiving 2017.
Houston-New Orleans cách nhau chỉ hơn 300 dặm đường.Bình thường quãng đường nầy chỉ phải tốn khoảng 6 tiếng lái xe, nhưng vì sau mùa bão dữ, một vài nơi phải sửa chữa, một vài nơi cần tu bổ nên cũng làm ngại ngần những kẻ ham vui. 
Lạ một điều là bạn bè chúng tôi ở hai thành phố nầy đều có rất nhiều người ham vui, nhưng có lẽ cường độ ham vui của phe Houston cao hơn bình thường nên “đường Houston-New Orleans dễ đi hơn là New Orleans-Houston”... sao đó hổng biết. Giống như trường hợp gọi điện thoại thăm bạn bè của tôi. Có lần nhà tôi thắc mắc, “tại sao em thấy anh hay gọi thăm bạn mà ít thấy bạn gọi thăm anh?” Tôi có chút ngập ngừng rồi ngộ ra, “tại vì anh nhớ bạn nhiều hơn, anh quởn hơn họ, anh “hơi bị” già nên có nhiều điều... cần nói hơn. Với lại, anh mà không nghe tiếng bạn bè, anh sẽ sanh bệnh thì sao!” Nhà tôi nghe “có lý” nên cũng êm.
Chúng tôi đã nhiều lần đến nơi nầy, từng bù khú với những “nhân vật đặc biệt” ở đây, thế mà lâu lâu không qua lại nhớ... nhớ cảnh, nhớ người, nhớ cái không khí xô bồ của thành phố du lịch, nhớ những nét hiền hoà của thị trấn Slidell ở ngoại ô thành phố, nhớ khu Versailles với khu chợ chồm hổm nổi tiếng của dân Việt tỵ nạn; nhớ cầu Con Cò dẫn qua khu người Việt ở West Bank với con đường Manhattan quen thuộc, dài “mút mùa lệ thuỷ.”
Cũng phải công tâm mà nói, New Orleans hấp dẫn hơn Houston là cái chắc. New Orleans có French Square với Cafe Du Monde thơm lừng một góc phố, có đường về đêm Bourbon hấp dẫn với nhạc Jazz và các tiệm quán có lắm cô nương xinh đẹp con nhà nghèo, có lễ hội Mardi Gras hàng năm vui nhộn, ồn ào với hàng ngàn mỹ nhân đi ngập phố mà không cần mặc quần áo chi cả ngoài một lớp sơn, có đủ màu sắc cầu vòng tươi nhuận, mỏng dính trên làn da mịn màng, láng o (body painting); New Orleans còn có tuyệt chiêu Crawfish. Thử tưởng tượng khi khí trời lành lạnh, bạn bè rủ nhau ngồi nhậu chung quanh đống crawfish chất cao như núi, cay xé môi, cay trào nước mắt; phần ai nấy tay làm hàm nhai... cứ lột lột lủm lủm năm ba con thì lại đưa chai bia lạnh lên môi làm một cái ực... đã đời, tuyệt vời, không tả xiết. Crawfish thì dường như ở đâu cũng có, hoặc ít hoặc nhiều, lắm người biết nấu nhưng khó có thể bắt chước được mùi vị của crawfish New Orleans.
Đại lược, New Orleans là thành phố du lịch, hấp dẫn hàng triệu du khách mỗi năm từ năm châu bốn biển  đổ về; thành phố của thơ ca và âm nhạc rất Tây; thành phố của “Xếp Al Capone”, của “Phát Súng Ân Tình” (ai chưa đọc truyện “trinh thám, võ hiệp kỳ tình - truyện lạnh tóc gáy của những ông trùm ma tuý một thời làm mưa làm gió ở chốn này – dưới ngòi bút phóng tác lôi cuốn, hấp dẫn của nhà văn KQ Trường Sơn Lê Xuân Nhị thì rất nên tìm đọc); trong khi Houston cứ phẳng lì như một người đàn bà có nhan sắc mà không có vòng có số gì ráo trọi!
Xin điểm sơ qua những nét độc đáo của các “dị nhân quái kiệt” ở xứ này mà chúng tôi có hân hạnh được gọi bạn bè. 
Trước nhất phải nói tới một Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt, cựu Chủ tịch Hội Cựu SVSQ Võ khoa Thủ Đức Huỳnh Hồng Quân, là một trong những người chủ chốt đóng góp rất nhiều công sức trong việc tranh đấu để Cờ VNCH được chính quyền bản xứ công nhận là biểu tượng của Người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Hoa Kỳ. Phải nói, Louisiana là tiểu bang đầu tiên công nhận và vinh danh lá cờ chính nghĩa của chúng ta.” Anh Huỳnh Hồng Quân ơi, lần nầy xin nợ anh, chúng ta sẽ gặp nhau vào dịp tới nhé.
Phía đông của thành phố nầy có cặp uyên ương Triệu Minh-Trương Vô Kỵ tân thời. Hữu Việt-Nhật Nguyễn. Chàng nguyên là Đại Uý Biệt Kích Dù 81 oai hùng, đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước, đã anh dũng chỉ huy đơn vị chiến đấu tới giờ phút cuối cùng để được bên thắng cuộc cho đi học tập dài hạn mà vẫn chưa thuộc bài. Chàng anh hùng là thế,nhưng sau khi đổi đời, được may mắn “Hỡi Ơi” sang đất nước cơ hội này để cùng nàng xây dựng lại hạnh phúc gia đình tưởng đã tan nát bởi lũ nửa người nửa ngợm của bên thắng cuộc. Sau bao năm chèo chống cùng nàng làm lại cuộc đời ở xứ sở tự do,giờ đây con cái họ đã lớn khôn, đã nên danh nên  phận, hai người thơ túi rượu bầu, sớm tối ra rít bên nhau như những cặp tình nhân không có tuổi. Nàng hát cho chàng nghe, chàng vẽ lông mày cho nàng để luôn giữ cho nàng vẻ thanh xuân, xinh đẹp với nụ cười luôn rạng rỡ trên môi. Nhưng trên hết, việc đối xử với bạn bè của họ luôn luôn trên cả tuyệt vời, khiến cho những hạnh ngộ không dễ gì quên, những ly biệt buồn hơn mấy bậc. Nàng là một nhà văn nữ có tiếng, với lối hành văn nhẹ nhàng như tiểu thuyết, lãng mạn như tình ca, nội dung nào cũng đầy tính nhân bản cao vời vợi, rất lôi cuốn người đọc. Ngoài tài viết văn, nàng cũng là một người làm thơ có hạng. 
Phía tây cũng có một cặp rất ư là đặc biệt, Thu Ba-Quan Dương. Đó là ông nhà thơ có câu nói bất hủ, “không thể làm thơ dở được”. Chàng là cựu SVSQ Võ khoa Thủ Đức, cũng là một “Hỡi Ơi” sau nhiều năm nằm ấp trong lò sát sinh gọi tên trại cải tạo. Không biết tài đánh giặc của chàng ra sao, không nghe nói tới, nhưng tài viết văn, làm thơ công nhận đặc sắc. Chữ nghĩa, ý tưởng, câu cú của chàng có những nét rất riêng, rất lạ, rất bắt mắt... ví dụ như tập truyện ngắn có tựa đề “đợi đêm tàn bắt sống một chiêm bao” chẳng hạn. Chàng được rất đông độc giả trên văn đàn ái mộ, nhất là độc giả nữ không tiếc lời khen. Nàng là một người đẹp, có nụ cười làm sáng cả chỗ đứng nào nàng chọn đứng. Là con dân xứ “múa roi đi quyền”, là hậu duệ mẫu mực của Trưng Triệu. Chàng sẽ không thể viết văn, làm thơ hay nếu không có một nội tướng như nàng. Đặc biệt đối với bạn bè đàn ông thì chàng hay cà tửng chọc quê, nói chuyện xóc hông để chọc ghẹo; còn text qua chat lại với mấy nàng thì ôi thôi... dẻo quẹo; trong khi đó, tính tình nàng lúc nào cũng nhu thuận, thân tình, tiếp đãi bạn bè nồng hậu, vồn vã.
Cũng phía nầy, chỉ cần 5 phút lái xe cắt ngang con đường Manhattan là tới ngay giang sơn của Xếp Al Capone Trường Sơn Lê Xuân Nhị. Một điều không ai trong đám viết lách không biết là người có mấy bộ tác phẩm đồ sộ, bán chạy như tôm tươi; là người thành công nhất về tài chánh ở hải ngoại bằng ngòi bút sắc sảo, đa dạng, chuyên trị chuyện giang hồ và các đấng anh chị trong giới bài bạc rượu chè. Chàng viết đến nỗi nhập vai giang hồ mã thượng, đôi khi coi trời bằng vung, nói chuyện văng miểng vung vít và rượu chè cũng chả thua gì Xếp. Trước khi là “Xếp”, chàng nguyên là một phi công hào hoa phong nhã của KQ VNCH. Nửa đường gãy cánh, vọt qua Mỹ và chọn vùng đất nầy để làm quê hương thứ hai. Trước kia chàng cùng với Ó Đen Lý Tống, phi công nhà thơ Nguyễn Lập Đông là bộ tam sên, đình đám một thời (cũng vốn là những dị nhân quái kiệt ở vùng đất nầy.) Bây giờ người thì về Cali, kẻ dọn qua Texas... chỉ còn chàng vẫn kiên trì bám trụ. 
Và... phía bên kia cầu Con Cò, cách khu Versailles không xa là một khu rừng khác, con hổ khác. Đó là Huỳnh Công Ánh. Con hổ nầy cũng vô cùng đặc biệt. Chàng xây dựng cơ ngơi bằng hai bàn tay trắng sau khi cơn bão Katrina làm tan nát cả một phần lớn thành phố. Thăm viếng cơ ngơi của chàng, chúng tôi không còn muốn về nhà mình nữa. Vườn tược được chăm sóc kỹ lưỡng, cây cối xanh um, hoa trái trĩu cành, chỗ nầy hồ cá kiểng với thác nước róc rách cả ngày đêm, khu kia là vườn thanh long rộng lớn, hàng chuối sứ nặng trĩu với gần 50 buồng sắp tới mùa thu hoạch. Ở giữa vườn là khu nhà mát khá rộng rãi, nơi thưởng trăng, ngoạn kiểng, nhậu nhẹt, đàm đúm văn nghệ tuyệt vời. Mùa nầy, vườn của chàng toàn một loại hoa vàng như hoa mai, rực rỡ cả một góc xóm. Lý lịch trích ngang của chàng thì “thăm thẳm chiều trôi”, kể sao cho xiết. Chàng nguyên là sĩ quan chỉ huy gan dạ thuộc đại đội trinh sát, một thời vào sinh ra tử. Cũng tù tội miệt mài như những ông bạn đặc biệt của chúng tôi ở vùng nầy và cũng là một “Hỡi Ơi” nhưng có nhiều tình tiết rất ly kỳ. Và là cựu chủ tịch Hội Tù Nhân Chính Trị ở Houston, là trưởng nhóm Hưng Ca, là chủ một nhà hàng Việt Nam to lớn nổi tiếng một thời ở Houston. Chuyện đời chàng được ghi lại đầy đủ trong tập hồi ký đồ sộ, bằng song ngữ có tên gọi “Vượt Tù, Vượt Biển”, đang trong tiến trình dựng thành phim do một công ty phim ảnh của Mỹ đề nghị. Quý vị cố gắng tìm đọc để thấy những dòng tôi viết về chàng chẳng thấm vào đâu.
Đi New Orleans lần nầy tôi cũng sẽ có dịp gặp lại người bạn học xưa cũ nửa thế kỷ. Hắn nguyên là cựu Sĩ Quan Quân Cảnh Tư Pháp Nguyễn Tấn Tài, học trò Trung Học Long Khánh thuộc diện đẹp trai con nhà giàu học giỏi. Hồi xưa, bất cứ quân nhân nào mà được Quân Cảnh Tư Pháp chiếu cố, kể như... mệt bá thở. Oai phong lẫm liệt quá cỡ nên đám con cháu lão Hồ cũng phát sợ, cho chàng “cải tạo” mút mùa; chỉ mới được “hỡi ơi” đến Mỹ chỉ có mấy năm qua nên cũng phải cuốc cày tối tăm mày mặt để bắt kịp nhịp đời với thế giới tự do.

*  *  *

Gọi nhau í á, hẹn tới hẹn lui, email, i-miết, việc nầy việc khác... đến ngày quyết định tối hậu còn lại ba cặp. Tuý Hà, Đặng Minh Hùng và tôi. 
Trong nhóm bạn ham vui, thân thiết của chúng tôi ở Houston còn có hai người rất lấy làm tiếc vì không thể cùng nhau chung một chuyến đi. 
Trước nhất phải kể tới ông cựu phi công C130 Phạm Tương Như. Chàng được gọi là thi sĩ của tuổi học trò, của các con nai vàng ngơ ngác. Chàng có tài làm thơ rất nhanh như lấy ra từ trong túi; mỗi ngày có thể sản xuất 5-7 bài dễ như chơi. Chị Hoa, vợ của chàng, là một người vợ hiền thục ngoại hạng, đã lầm lũi bên chàng gần nửa thế kỷ qua. Có lẽ chị đã quá rành chàng 6 câu (hay là quá mệt mỏi với chàng...) nên chàng cứ mặc tình đi sớm về khuya mà không sứt mẻ chút nào. Tính tình chàng dễ thương vô cùng tận và rộng rãi ngoại hạng. Phải nói trong lũ bạn chúng tôi không ai có thể sánh bằng và tôi rất hãnh diện về chàng vì chàng là đàn anh của tôi trong quân ngũ, đã ở sát vách nhà của nhau từ thuở cơm hàng cháo chợ Saigon. 
Người nữa là chàng cựu SQ Phòng 7 Nha Kỹ Thuật Đào Vĩnh Tuấn. Là một nghệ sĩ đa tình, tướng mạo như thư sinh khá cao ráo, đẹp trai; thi ca phong phú, có giọng ngâm thơ rất truyền cảm. Chàng là người trẻ tuổi tài cao, trẻ nhất trong đám. Thế nhưng con đường tình của chàng không được suôn sẻ như chúng tôi. Chàng thong dong tự tại, độc thân vui tính, uống rượu như hũ chìm. Thế rồi, một ngày Houston đẹp trời, cô em họ của Đặng Minh Hùng – Ca sĩ nghiệp dư Xuân Diệp, trẻ trung, xinh đẹp, dễ thương, ca hay hát giỏi - mới chân ướt chân ráo vừa tới Mỹ, thì tiếng sét ái tình đã nổ ngang trời Houston khiến cả hai “dính chấu”. Không biết ai hấp dẫn ai nhưng họ yêu nhau thắm thiết rất mau và quyết tâm cùng nhau đi trọn đường trần. 

*  *  *

Vì chỉ có 6 người đi nên chúng tôi quyết định đi chung xe cho vui. Đặng Minh Hùng tình nguyện sử dụng xe nhà, mới mua không lâu; giành làm tài xế cả đi lẫn về. Không phải chàng chê chúng tôi lái dở hoặc sợ làm hư xe mới mà là chàng sợ ngồi không, chịu không nổi, suốt quãng đường dài. Được thôi ông cựu Biệt Kích. Trong đám bạn bè này, ông Biệt Kích của chúng tôi chỉ già hơn Vĩnh Tuấn một chút, nhưng đã là ông bà nội ngoại của một chùm 8 đứa cháu, trai gái đề huề; đã vậy mà râu tóc thì trắng phau, lại vừa thoát khỏi cái lưỡi hái cong cong, vượt qua con bệnh ung thư phổi ngặt nghèo... thế nên chàng tưởng mình bất tử, cứ chơi xả láng sáng về sớm... đi nhậu tiếp!Chàng cũng là một người tài ba. Không tài ba sao có thể dụ được mợ Thuỷ - bà đô thị của chàng bây giờ - từ thuở “tóc nàng chưa đầy búi” được. Chàng kể chuyện hấp dẫn, hát rất hay, hiểu biết hơn người. Hai vợ chồng chơi với anh em hết tình hết nghĩa, hoà đồng với mọi người, không so đo thượng vàng hạ cám nên ai cũng mến mộ, ai cũng dễ gần gũi.
Và cũng xin được nói sơ về ông bà Tuý Hà-Tina Dung. Cặp nầy cũng dễ thương không kém. Nàng, người nhỏ nhắn, thân thiện, lúc nào cũng rán chìu chuộng, chạy theo chàng say của mình. Chúng tôi đặt tên chàng là “Dòng Sông say”. Say ngất ngưởng, say tuý luý. Ngoài ra chàng còn có tên “Khô Mộc thiền sư” vì thích biểu diễn bộ xương cách trí của mình đủ bốn mùa tám tiết. Thơ văn dạt dào, tình nghĩa bạn bè thắm thiết. Là đương kim Chủ tịch hội Văn Bút Nam Hoa Kỳ. Giỏi hơn người mà cũng quởn hơn người nên anh em đùn đẩy cho làm TTK 3 nhiệm kỳ, rồi làm chủ xị 2 nhiệm kỳ, mỏi mệt vẫn chưa được nghỉ. Vốn là cựu Đại Uý Biệt Kích Dù 81 oai hùng, một đơn vị chuyên trị núi rừng miền Trung. Đơn vị đã nổi danh qua trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa ở Bình Long, An Lộc, “An Lộc, địa sử ghi chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.”

*  *  *

Đang ngon trớn trên xa lộ xuyên bang số 10 thênh thang, bỗng một chiếc bánh phụ của chiếc xe chạy trước mặt bị rớt xuống đụng ngay đầu xe! Thế nhưng tài xế Đặng Minh Hùng rất bình tĩnh lạng lách kịp thời làm cả xe hú hồn. Nếu là một tay mơ chắc đã lãnh đủ, ai biết chyện gì đã xảy ra. Chúng tôi phải tấp vào một cây xăng gần nhất để xem xét thiệt hại. Cửa trước bên hành khách không thể mở được vì cái bửng bên hông cong lên làm kẹt cái cửa. Hai người phải nhảy lên nhún cho nó thấp xuống tôi mới bước ra khỏi xe được. Phía trước đầu bên phải cũng bị bánh xe va chạm, may không bể đèn, bể máy chỉ là móp cái đầu xe, không nặng lắm nhưng sẽ quá số tiền bảo hiểm deductible (chủ xe phải trả trước) chút đỉnh nên chủ xe Hùng quyết định tự sửa nên không cần khai báo và nhất định tình nguyện một mình gánh vác.
Khi sắp xếp chuyến đi, chúng tôi đã dự định đi vào sáng sớm Thứ Sáu, chạy thẳng qua nhà Hữu Việt-Nhật Nguyễn ở luôn ba ngày. Dự định làm phiền ông bà này toàn thời gian ngoài những giờ thăm viếng bạn bè và rong chơi ngoài French Square.  Nhưng khi Huỳnh Công Ánh biết chúng tôi dự định qua New Orleans, chàng lại đang ở đây một mình nên ân cần mời gọi anh em tới chơi và ở lại nhà chàng ít nhất một hôm. Chàng nói nhà rộng thênh thang, dư phòng cho tất cả mọi người thoải mái, nhất là vợ con chàng đang ở Dallas chưa về. Chúng tôi phải gọi Hữu Việt để thông báo sự thay đổi; ông Biệt Kích Dù có vẻ buồn lòng nói đồ ăn đã mua sắm đầy đủ, ăn không hết thì chúng tôi phải mang về lại Houston!
Đường đi qua vùng Baton Rough và Lafayette đều có sửa chữa nên chậm chạp, làm ông Huỳnh Công Ánh cứ gọi liên tục để biết anh em đã đi tới đâu. Chúng tôi nói với nhau, chắc vợ lão Huỳnh không có ở New Orleans nên chàng đang cô đơn ghê lắm. Mà quả vậy, chàng vẫn tiếp tục theo dõi hành trình chúng tôi, khi tới nơi đã thấy chàng đứng đợi trước khu vườn hoa vàng rực rỡ cùng với nụ cười mừng vui chào đón.
Chúng tôi choáng ngợp trước sự lộng lẫy, bề thế của khu vườn. Chưa kịp an định, mọi người chúng tôi sử dụng iPhone để ghi lại cái đẹp của khu vườn trong buổi chiều nhạt nắng. Khi vừa an định đã thấy người ta mang thức ăn tới. Thức ăn ê hề được ông Huỳnh đặt sẵn. Dĩ nhiên không thể thiếu món đặc sản Crawfish. 
Tính đi tính lại thì chúng tôi không có nhiều giờ như đã tính. Bạn bè văn nghệ lâu lâu gặp nhau thì chuyện cứ nổ như bắp rang, rượu thì “thiên bôi thiểu”, ca vũ nhạc kịch không thiếu, chỉ thiếu không có ba phần sau. Tính tới tính lui tôi sợ không thể tách ra đi thăm bạn nối khố Nguyễn Tấn Tài nên đành gợi ý với chủ nhà và các bạn để mời Quân Cảnh tới chơi chung. Quân Cảnh mới “one leg wet one leg dry (chân ướt chân ráo)” nên không rành đường, sợ ban đêm đi lạc nên phải chờ ông bạn thổ địa Thành, cựu chủ tịch Hội KQ New Orleans đương kim chủ chợ 99, đóng cửa xong mới tới. 
Cùng lúc, Đặng Minh Hùng cũng mời một bạn quen biết từ ở VN mới sang Mỹ ở với các con. Đó là ông hoạ sĩ nổi danh mà cũng nổi đình nổi đám - Nguyễn Nhân - vì đã được Ban Giám Khảo quốc gia chấm trúng giải với bức tranh “Biển Chết, Cá Chết”. Nhưng nhà nước bắt BGK phải thu hồi giải trúng và dự định khiển trách, biến hoạ sĩ thành người mang hoạ về tội châm biếm nhà nước. Thế là hoạ sĩ sợ lũ chuột làm thiệt, vọt lẹ qua bên nầy tránh hoạ. Nói cho đúng, hầu hết chúng tôi đã từng gặp hoạ sĩ Nguyễn Nhân một lần ở Houston, vài người trong chúng tôi đã được chàng vẽ truyền thần cho một bức vẽ chân dung 5 phút. Vì chàng còn có cơ ngơi bên VN trong khi lũ con cháu đang ở bên Mỹ nên cứ phải đi đi về về. Chỉ có lần nầy dự định ở lâu hơn cho ba cái vụ lùm xùm lắng xuống. Tối nay, con gái út sẽ đưa chàng từ Covington qua và sẽ loanh quanh chơi với đám chúng tôi cho tới ngày chúng tôi rời New Orleans.
Tôi cũng gọi điện thoại rủ Xếp Al Capone Trường Sơn tham dự nhưng nghe tiếng nói của chàng dường như đã quá độ để có thể lái xe. Hơn nữa, chàng cũng đang đình đám đâu đó với bạn bè. Hẹn chàng trưa mai gặp nhau ở nhà Quan Dương-Thu Ba. Chàng hứa sẽ có mặt.
Khi mọi người tới đầy đủ thì hoàng hôn đã tàn, bóng đêm đã sâu thẳm. May mà tửu lượng mọi người khá cao nên ba ông bạn mới nhập vào thêm rậm đám đờn ca, tiêu hao nhiều bia rượu cho đến khuya lắc khuya lơ mới cố gắng tan hàng với những hẹn cùng hò không có cơ hội thực hiện! Vậy thì “lần tới”! Bao giờ lại không có lần tới! Đâu ai có nhu cầu giựt đường cắt hàng đâu mà lo.
Trong khi vui chơi, chủ nhà Huỳnh nói rằng bà quận Hạnh và con gái quyết định từ Dallas về New Orleans đêm nay. Nhưng khi chúng tôi ngất ngưởng đi ngủ vẫn chưa thấy tăm hơi gì của mẹ con nàng. Trước khi chào nhau đi thiền, chàng cho biết là sáng sớm sẽ ăn sáng ở nhà do chính tay người đẹp Hạnh nấu trước khi kéo nhau đi French Square chào ngày mới để thưởng thức Cafe Du Monde thơm lừng và những rổ bánh beignet nóng hổi.
Không biết quý vị khác ra sao, riêng tôi đặt lưng nằm xuống là làm thẳng một giấc cho tới khi nghe tiếng người nói cười dưới nhà. Xuống đến nơi, thấy chủ nhà Hạnh đang làm bếp, mùi thức ăn thơm phức trong khi các chàng đã thức giấc dạo quanh ngoài vườn với thuốc lá trên môi, cà phê trên tay. Nghe Hạnh nói lái xe cả 8 tiếng xuyên đêm mà giờ lại lục đục làm bếp đãi bạn bè, tôi thật sự cảm động.
Xong buổi ăn sáng, cũng đã gần 10g sáng, chúng tôi kéo nhau đi French Square như đã dự tính. Chủ nhà Hạnh xin được ở nhà với con gái vì cần nghỉ ngơi; Huỳnh Công Ánh cùng đi với chúng tôi. Buổi sáng, khí trời gần cuối thu nghe lành lạnh, nghĩ tới ngồi với nhau bên ly cà phê nóng chắc tuyệt vời biết bao. Thế nhưng, khi ra tới nơi, đường sá vẫn đông đúc như thường lệ, chạy loanh quanh mấy vòng vẫn không tìm ra chỗ đậu xe, chạy ngang Cà phê Du Monde thấy người ta sắp hàng rồng rắn... đâm ra nản; bèn gọi Quan Dương để chạy thẳng tới nhà.
Hẹn ăn trưa mà mới hơn 11g đã đến. Vợ chồng gia chủ vui vẻ đón khách. Bước vào nhà đã thấy một bàn tiệc thịnh soạn sắp sẵn, tươm tất, chu đáo. Chủ khách rôm rả với bao nhiêu điều tâm sự. Hữu Việt từ Slidell trên đường qua. Tôi gọi điện thoại nhắc Xếp Capone, lại nghe giọng chàng đã “ba xí ba tú”. Chàng cự quá sá rằng, tại sao anh em Houston qua mà không báo cho hắn biết trước để mời đón, mà mãi bây giờ mới gọi qua nhà Quan Dương? Tôi nhắc, “chiều hôm qua đã gọi liền rồi, mời bạn qua nhà Huỳnh Công Ánh thì bạn bận nhậu, hứa trưa nay gặp nhau ở đây.” “Bạn gọi tôi hồi nào tôi không nhớ, bây giờ thì đang có anh em bù khú ở đây, thôi các bạn ở nhà Quan xong chạy qua nhà dân chơi một lát được không?” “Kiểu nầy trớt quớt rồi bạn hiền ơi! Đi một nhóm khá đông, rất không tiện để kéo hết sang nhà bạn.” “không sao, càng đông càng vui!” Tôi ngó một nhà đang sinh hoạt vui nhộn nơi đây, chưa đụng tới chén đũa, bàn tiệc và mấy chai rượu thùng bia còn nằm yên hát bản đợi chờ thì làm sao có thể qua nhà bên Xếp đang nhậu dở dang. Ngoài ra, Hữu Việt còn nói là xong ở đây về ngay Slidell kẻo Nhật Nguyễn trông đợi. Sở dĩ nàng vắng mặt vì còn phải ở nhà lo chuẩn bị đón khách. Thế là đành phải hẹn... lần sau! Xếp Capone không vui lắm nhưng... thôi thế cũng... đành!
Trở lại câu chuyện đang rôm rả. Ông nhà thơ tạo ra đề tài địa thế Bắc Nam bên Mỹ để “cắc cớ nhau” cho vui... rằng thì là, “mấy ông có biết là ở Mỹ, rất nhiều thành phố lớn... khu East bao giờ cũng nghèo kém hơn khu West không?” Nói xong ngó Huỳnh Công Ánh và Hữu Việt cười ruồi. Cả hai ông nầy đâu phải dân vừa. Nào là “ông có biết văn minh của nhân loại phát sinh từ phương đông không”, “mặt trời có bao giờ mọc ở phương tây?”, “người ta nói bình minh rực rỡ chứ có ai nói hoàng hôn rực rỡ bao giờ?” Nhưng Chàng Quan Dương, một tay cãi ngoại hạng, có bao giờ bị “cứng họng” đâu. Cãi không lại thì tìm trăm ngàn lý lẽ như tìm vần thơ cho cả nhà ngập đầy tiếng cười vui.
Có trùng trình mãi thì cũng tới lúc chia tay. Quan Dương-Thu Ba bận chuyện riêng nên không thể tháp tùng được. Chúng tôi, gồm luôn Huỳnh Công Ánh, kéo nhau qua Slidell khi những tia nắng gần cuối ngày ở phía West nghiêng xéo về hướng East.
Nhật Nguyễn-Hữu Việt vui mừng đón tiếp phái đoàn... báo hại vào căn nhà hạnh phúc của họ. Như đã nói, tất cả người trong nhóm chúng tôi ai cũng ít nhất đã một lần ở lại nơi này. Nhưng, khu vườn Hương Xưa cùng với quán cà phê Cổ Tích ngày một xinh đẹp hơn, ấm cúng hơn. Hạnh phúc của họ có thể thấy khắp nơi, từ chỗ ngồi góc quán, đến góc vườn xanh mướt; từ phòng ca nhạc tới studio chụp hình. Cứ đọc mấy cái notes họ dán hờ hững trên cửa tủ lạnh, “em ở nhà nhớ uống thuốc nha”, “rất tiếc hôm nay em phải đi sớm, không cùng uống cà phê buổi sáng với anh”... còn rất nhiều nữa, có thể dán đầy mấy trang lưu bút ngày xanh.
Ngoài việc ăn uống no đủ từ chiều đến khuya, trong đêm tiếng nhạc xập xình với những giọng ca dĩ vãng làm tiêu tốn nhiều chai rượu, vài két bia... cho đến khi người hát hết xíu quách, người nghe đã ngủ gà ngủ vịt thì mới vãn tuồng. Ông Huỳnh Công Ánh - vì chìu lòng anh em đi chơi với nhau cả ngày, có lẽ mới giật mình nhớ vợ nên lòng thấy áy náy - vọt về giữa đêm khuya.
Buổi sáng thức dậy khi phong cảnh còn ngái ngủ trong tiếng sương rơi. Xong phần điểm tâm, cà phê, thuốc lá... nhiếp anh gia chủ nhà chụp hình cho từng đôi từng cặp. Khi nhìn lại hình ảnh của chính mình trên computer, ai cũng cảm thấy “ta thấy ta rất đẹp”, “đẹp thênh thanh, đẹp miên man, đẹp tràn lan” như lời nhạc của anh nhạc sĩ Nguyễn Quốc Việt trong nhạc phẩm “Chuyệns”. Bên cạnh đó, ông Hoạ Sĩ Nguyễn Nhân cũng đã ưu ái ngồi miệt mài vẽ chân dung cho cả 8 người chúng tôi chỉ trong một khoảng thời gian mấy tuần trà... như để thay lời cám ơn tri ngộ. Phải công nhận ông hoạ sĩ rất tài ba, chỉ với vài nét vẽ mà ai cũng có thể nhận ra được ai là ai. Tôi tự nhũ thầm, giá mà tôi là người ngồi vẽ, chưa nói tới chuyện giống người hay không, chắc không phải mấy tuần trà mà là mấy tuần... lễ mới có thể xong được từng ấy.
Rồi cũng đến lúc phải nói câu giã từ! Lưu luyến chia tay, kẻ ra đi người ở lại... nhắc nhớ bài thơ “Người Ở Lại” tôi đã viết rất lâu rồi:
Người đi rồi… mình tôi ở lại
Dựa đỉnh sầu tiếc nhớ khôn nguôi
Chiều vẫn vàng, mây trắng ngập ngừng trôi
Nghe rã mục chút bọt bèo hạnh phúc
Người đi rồi… nỗi buồn ray rứt
Ôm chặt tôi tê điếng, rã rời
Thế là thôi hạnh phúc cả một đời
Ai rao bán cho người mua mặc cả
Người đi rồi, nỗi buồn rệu rã
Tiếng lá rơi khe khẽ bên thềm
Tiễn người đi lệ ướt môi mềm
Một thoáng đã nghìn trùng cách trở
Người đi rồi… vần thơ khắc khoải
Mắt lệ mờ thao thức canh thâu
Cất giọng ngâm, hời hợt khối tình sầu
Cho dĩ vãng hòa tan thành câm nín
Người đi rồi… có còn lưu luyến
Như lá thu sót lại trên cành
Dù biết rằng cuống lá rất mong manh
Như tâm sự của tôi – người ở lại!
Dọc đường về, chúng tôi ghé ngang Covington để trả chàng hoạ sĩ về nhà rồi trực chỉ Houston. Chuyến đi thật vui, ngoài một tỳ vết nhỏ trên phía trước chiếc xe còn mới của Đặng Minh Hùng. Cám ơn tình thân ái của các bạn New Orleans dành cho lũ chúng tôi. Và thế nào, chúng mình vẫn còn dịp gặp lại.

Rừng Vua, ngày đầu tháng 12/2017
(Yên Sơn)


                     Yên Sơn và Huỳnh Công Ánh...


Phụ chú:
Lịch Sử Thành Phố New Orleans
New Orleans là một thành phố lớn nằm về phía nam tiểu bang Louisiana, bên con sông dài uốn khúc Mississippi. Thành phố nằm trải dài vế phía đông con sông và phía nam hồ Pontchartrain. Vì thành phố nằm bên con sông dài uốn khúc nên có tên là "Thành Phố Lưỡi Liềm" (Crescent City). New Orleans với số dân trên 1 triệu (theo thống kê dân số năm 2013), là một thành phố lớn nhất trong tiểu bang Louisiana và cũng là một trong những thành phố chính của miền nam Hoa Kÿ. Thành phố, dài 177 cây số (110 mi), được thành lập trên khoảng độ cao gần cửa sông Mississippi, cao hơn mặt biển từ 3.65 m (12 ft) đến độ thấp là 2 m (6.5 ft). Vì vậy hệ thống nước, ống cống, và đập nước đã được xây dựng khéo léo để bảo vệ thành phố khỏi bị lụt lội. Kích thước đất của thành phố rộng 518 km vuông (200 sq mi). Khí hậu mùa Đông của New Orleans rất dịu dàng và mùa hè rất nóng nực ẩm thấp. Nhiệt độ trung bình vào tháng giêng là 13 độ C (55 độ F), và tháng Bảy là 28 độ C (82 độ F). Mỗi năm mưa đổ xuống thành phố khoảng 1,448 mm (57 in).
Dân số thành phố New Orleans bao gồm nhiều nhân chủng khác nhau như: Anh, Pháp, Phi Châu, Ý, Ái Nhĩ Lan, Tây Ban Nha, Cubans, Việt Nam. Dân Cajuns, hoặc Acadians là giòng dõi người Pháp bị trục xuất khỏi Nova Scotia (hoặc Acadia) vào thế kỷ 18 và là thứ dân di trú đầu tiên tại New Orleans. Họ nói tiếng thổ ngữ (Cajun French) của họ.
New Orleans là một trong những hải cảng lớn nhất của thế giới và được xếp hàng đầu trong nước Hoa Kỳ vì hàng năm có thể nhập cảng đến hàng triệu tấn hàng hóa. Những hàng hóa chính xuất cảng gồm dầu hỏa, lúa, bông gòn, máy móc, sắt và thép. Kinh tế của thành phố phần lớn từ các hãng khoan dầu, các hãng biến chế hoá học, nhôm, những hãng sản xuất thức ăn và du lịch.
Một trong những biến cố quan trọng nhất của thành phố cho du khách là Lễ Hội Mardi Gras thường tổ chức một tuần trước Mùa Chay.
Superdome là một trong những kiến trúc nổi tiếng nhất thế giới của New Orleans. Đây là một sân vận động trong nhà khổng lồ, nơi thu hút những buổi đấu thể thao quan trọng và cũng là nơi đã đạt được một chỗ đứng hàng đầu cho thành phố về những buổi hội nghị quan trọng. Rất nhiều trận Superbowl đã được tổ chức ở đây.
Một trong những di tặng đặc biệt để lại cho thành phố là "Trung Tâm Hội Nghị" (Convention Center) được xây trong thời gian Hội Chợ Thế Giới (World Fair). Hội chợ này đã kéo dài sáu tháng và được tổ chức vào năm 1984 tại New Orleans.
Nói đến New Orleans thì cũng phải nhắc đến những tiệm ăn ngon, nhạc Dixieland Jazz, nhiều văn hóa khác nhau, và educational facilities. Tulane (1834), Loyola (1849), và Dillard (1869) là những Viện Đại Học chính của thành phố. Thành phố New Orleans còn nổi tiếng về "The French Quarter", hoặc "Khu Phố Pháp Cũ" (Vieux Carré) - khu vực nguyên thủy của thành phố, nơi mà ngày nay còn mang nhiều di tích lịch sử và những căn nhà với cách kiến trúc đặc biệt theo kiểu Pháp thuộc.

New Orleans được thành lập vào năm 1718 do ông Jean Baptiste Le Moyne, đến từ thành phố Bienville, Pháp quốc, khi Âu Châu có cuộc đi tìm đất mới. New Orleans là tên được đặt theo tên của thành phố Orléan bên Pháp quốc. Thành phố là thuộc địa của Pháp cho đến năm 1763, sau đó được trao quyền cai trị cho nước Tây Ban Nha. Năm 1800, Tây Ban Nha nhường lại cho Pháp cai trị. Năm 1803, vua Napoleon đệ Nhất đã bán thành phố New Orleans và toàn lãnh thổ tiểu bang Louisiana và các tiểu bang lân cận (Louisiana Purchase) cho Hoa Kỳ. Năm 1815, nơi này cũng đã là đồn trại của chiến trận New Orleans năm 1812. Trong thời nội chiến, một đoàn tàu phe Union dưới sự điều khiển của David Farragut đã bao vây thành phố nhưng họ đã bị thất bại vào ngày 25 tháng 4 năm 1862.








No comments:

Post a Comment