Sunday, April 15, 2018




                                       Đôi bạn. ( ảnh Tô Thẩm Huy)



Tình Bạn với TRẦN HOÀI THƯ
Phạm văn Nhàn (*)

Viết về nhà văn Trần Hoài Thư. Với tôi, trải qua một giai đoạn dài. Từ cuối năm 1967 cho đến hôm nay. Tình bạn vẫn gắn bó trên văn chương chữ nghĩa và ngoài đời.

1/ QUI NHƠN

Nói về bạn bè khi tôi còn làm việc ở Qui Nhơn không nhiều lắm. Ngay cả nhưng người bạn trong đơn vị của tôi. Ngoài ra tôi còn có vài người bạn cầm bút một thời còn rất  trẻ. Thỉnh thoảng gặp nhau bù khú vài ba câu chuyện cho vui. Hay ngồi quán cà phê nhâm nhi tách cà phê để nhìn thiên hạ trong những ngày rảnh rỗi. Nhưng vào cuối năm 1967 tôi gặp anh Trần Hoài Thư. Qui Nhơn là thành phố nhỏ, chỉ có vài con đường chính, lang thang rồi cũng gặp nhau. Thành phố đầy bụi và xe nhà binh. Không khí chiến tranh bao trùm, và đĩ trong những khu quân sự có lính đồng minh trú đóng . Hay trên những con đường trong thành phố đầy quán bar. ( thật sự là như vậy). Những người lính như chúng tôi cảm thấy lạc lõng giữa lòng phố thị.

Đã trải qua 50 năm, ngồi ôn lại những người bạn trong thời khói lửa chiến tranh khốc liệt mà tôi gặp, trong đó có anh . Nhất là ở chiến trường Bình Định, tôi không biết gặp anh lúc nào. Ai giới thiệu. Tôi không nhớ ra. Hay chúng tôi có cái tên: không gặp mà đã quen. Mà sao tôi với anh gắn bó trên tình bạn lâu nhất. Phải nói " ngọt bùi" đều có nhau, dù hai chúng tôi khác đơn vị. Ngay cả những người bạn cầm bút vẫn nói như thế.

Vào năm 1967. Nếu tôi không có lệnh đổi về Qui Nhơn làm việc thì làm sao gặp và thân với Trần Hoài Thư ??. Bên cạnh anh, tôi còn có hai người bạn dù nhỏ tuổi hơn tôi, lại khác nghề nghiệp, mà hôm nay cũng đã 50 năm, tôi không hiểu sao lại gặp hai người bạn trẻ này. Đó là nhà thơ Phạm Cao Hoàng và Lê Văn Trung. Tôi chỉ nói ở Qui Nhơn thôi. Chú bạn bè tôi ở các tỉnh tôi chưa nói đến. Có lẽ vì cái "tên" chăng? . Mà trước 1975, chỉ ở miền Nam, những người cầm bút dù là lính hay không phải là lính, chưa gặp lần nào. Mà nếu có gặp nhau xem như thân quen tự lúc nào.

Qui Nhơn, tôi sống lang thang không nhà một thời gian ngắn, Hết ở nhà này tới nhà khác . Hết ở bến xe tới ga xe lửa. Lang thang hoài cũng mệt, tôi quyết đinh thuê một căn nhà gồm 2 phòng trong khu 6 Qui Nhơn, Cuối đường Nguyễn Thái Học. Gần các cơ quan quân sự. Và gần nơi tôi làm việc.Từ trong ngôi nhà này, nó như cái trạm dừng chân cho những người bạn của tôi từ chiến trường về thành phố nghỉ tạm qua đêm. Những người bạn của tôi qui tụ về. Thường nhất là Trần Hoài Thư. Phạm Cao Hoàng và Lê văn Trung. Thỉnh thoảng cũng có anh chàng học Sư phạm tên Mai Khế cũng ghé tới chơi. Tôi không biết sau này anh Mai Khế đó đi đâu? Căn nhà có cửa nhưng không khóa, chỉ khép hờ. Nhà không có điện. Thắp đèn dầu. Không giường không bàn ghế. Nhưng đầy ấp tình bạn và tình đồng đội, tình văn chương chữ nghĩa. Những người bạn từ chiến trường về phố thị cũng ở đây. Những em bị bắt đi lao công đào binh chờ ra tải đạn ngoài chiến trường cũng ở đây. Căn nhà thiếu thốn mọi thứ, nhưng tình thì không thiếu.

Nói và viết về Trần Hoài Thư. Tôi viết hoài không hết. Bản chất của Trần Hoài Thư. Người lính thám kích của Đại đội 405 của sư đoàn 22/BB nghe thì dữ dằn lắm, nhưng hiền như Bụt. Ốm yếu. Gầy gò, Cận nặng ( hình như 7 độ). Đôi kính cận lúc nào cũng có sợi dây thun quàn ra sau ót. Không bao giờ đội nón lưỡi trai ( nón của lính). Chỉ có một cái nón rừng, cuốn lại vắt ở cầu vai áo hay nhét vào túi quần. Lang thang. Bất cần đời. Nhưng có một tấm lòng rộng rãi. Biết thương người. Hòa đồng với mọi người. Không phân biệt. Thường chơi với những người lính không có cấp bậc. Không phân biệt nhà thơ lớn nhà văn nhỏ. Đã cầm bút là chơi hết mình. Đó là Trần Hoài Thư mà tôi quen đã 50 năm nay. Không thay đổi. Mỗi lần nói đến chuyện văn chương là anh cười sảng khoái.
Có một điều cần phải nói, với THT anh viết lúc nào cũng được. Tại quán cà phê. Tại bến xe. Và trong căn nhà khu 6 không có bàn ghế. Thế mà anh vẫn viết. Một điều nữa, cần phải nói. Chữ viết của Trần Hoài Thư xấu nhất trên thế gian này. Tôi chưa thấy ai viết chữ xấu như anh. Thế mà các anh trong tòa soạn đọc được mới hay. Tôi thì chịu, nếu ngồi đọc hết một truyện của THT Viết.

Viết về THT giai đoạn ở Qui Nhơn. Hình như ngoài tình bạn ra tôi với anh còn có cái duyên thật kỳ cục. Như Têt Mậu Thân năm 1968. Đơn vị bắt tôi thành lập một  đại đội khóa sinh về giữ an ninh từ ngày 27 cho tới sáng 29 Tết. Rải quân trên con đường dẫn vào thành phố. Đầu đường  Gia Long. Trên doạn đường này có cây xăng Ông Tề. Tối 28 tôi đi tuần tra, chó sủa nhiều dọc theo đường rầy xe lửa, Tôi cứ nghĩ là "thiên hạ" đi sắm tết. Sáng 29 Tết tôi rút quân để đơn vị BB thay thế. Ai dè đơn vị thay thế tôi lại là 405/ TK của Trần Hoài Thư. Sáng 30 Tết tôi định đi lang thang ra phố thì có lệnh cấm trại 100% . VC tấn công vào thành phố. Tối 30 Tết, Trần Hoài Thư bị thương tại cây xăng Ông Tề này. Mà cũng tại cây xăng Ông Tề này trước đó tôi có sao đâu? Âu cũng là cái số. Sáng mùng 2 Tết tôi vào QYV/Quy Nhơn thăm. Thư cười. Chưa chết.

 Một bản tin ngắn trên VĂN của ông Trần Phong Giao có đi  như sau. Xin trích:  
" bị thương trong thành phố.
Trần Hoài thư, một tác giả trẻ nhiều triển vọng, quen thuộc với độc giả bách Khoa, Văn..vừa bị thương khi đem quân về tiếp viện một thị trán ngoài Trung, trong cuộc binh biến đầu Xuân vừa qua.
Trong thư gửi toà soạn Văn, Trần Hoài Thư than là đi rừng đi núi mãi không sao, ngày đầu xuân về thành phố thì lại bị kẹt. Cứ ao ước về thành phố xả hơi ít ngày, nay lúc được về lại là để nằm trên giường bệnh. Trong lúc đó lại có tin, gia đình anh ở ngoài Huế lại tan hoang nhà cửa.
Mặc dù mắt bị cận thị rất nặng, Trần Hoài Thư hiện đang phục vụ trong một đơn vị thám kích. Sau những giờ hành quân gian khổ,anh chỉ có sinh thú độc nhất là đọc sách báo là sáng tác thơ văn.- Một sinh thú mà anh rất ít được hưởng vì nhiệm vụ tác chiến thường quá nặng nề.
Hy vọng và cầu chúc là sau ngày dời bệnh viện, Trần Hoài Thư sẽ may mắn hơn, được thuyên chuyển về một đơn vị nào đó,nơi mà ngioài phần quân vụ cần thiết , anh sẽ có một thời gian nhiều hơn dành cho công việc sáng tác..

Theo bản tin, Ông TPG hi vọng là sau khi THT ra khỏi viện sẽ được may mắn hơn. Làm sao có sự may mắn hơn khi một người lính không có thế lực. Không quen biết; mặc dù anh là một nhà văn có những truyện ngắn đi trên những tạp chí uy tín ở Sài Gòn . Mang đôi kính cận dầy cộm. Vẫn hành quân ở ĐĐ 405 TK.

Nói về căn nhà trong khu 6 Qui Nhơn. Ngôi nhà có MA có QUỶ thật sự. Không ai dám thuê để ở. Tôi không biết cho nên thuê.  Bạn bè ở tác chiến về ngủ qua đêm đều thấy. Nhưng với tôi thì không. Hình như ma quỷ thấy tôi đều sợ. THT vẫn nói như vậy.

Sau đó. Có ngươi lính quân cụ cho tôi ở ngôi nhà của anh ta không trả tiền nhà. Nhà bên cạnh nhà tôi thuê cũ. Vách ván. Mái tôn. Có giường và bàn. Rộng và thoáng. Nhưng vẫn không có điện. Từ ngôi nhà này, môt hôm, anh em họp mặt đông vui. Gồm PVN. Trần Hoài Thư. Phạm Cao Hoàng. Lê Văn Trung. Thái Ngọc San. Nhà báo Huy Hoàng và Lê văn Ngăn . Mấy anh em ngồi uống bia. Nhâm nhi khô mực, thì Thái Ngọc San bỗng dưng đứng dậy chỉ tay về phía Trần Hoài Thư nói : mày là thằng  lính đánh thuê. câu nói có vẻ hằn học. Lần đầu tiên tôi thấy Trần Hoài Thư nổi giận. Anh đứng dậy đập chai bia xuống bàn định đánh . Anh Huy Hoàng can và dẫn Thư ra ngoài. Không khí mất vui. Không biết anh Huy Hoàng nói với Thư như thế nào. Nhưng sau đó Thư với anh Huy Hoàng vào. Và xem như không có gì xảy ra. Viết lại hôm nay, anh Huy Hoàng, Thái Ngọc San và Lê văn Ngăn cũng đã mất rôi. Bây giờ chỉ còn là một kỷ niệm. Lần đầu tiên tôi thấy Trần Hoài Thư nổi nóng. Một lần nữa trên căn gác của Đặng Hòa ( nhà thơ Nguyễn Thị Thùy My) trong khu chơ Quy Nhơn. Hôm đó tôi lại chứng kiến Trần HoàiThư nổi nóng lần thứ hai đánh Đặng Hòa mấy tát tai. Vì khuyên Đặng Hòa bỏ hút bạch phiến không được. Đặng Hòa cũng đã mất rồi. .

Qui Nhơn, Tôi với THT hai người lính bụi, thường hay rủ rê "Dù" đi chơi. Hết Tuy Hòa rồi Nha Trang. Về Tuy Hòa có Mang Viên Long. anh Trần Huiền Ân. Phạm Ngọc Lư. Hoàng Đình Huy Quan. Phạm Cao Hoàng. Nguyễn Lệ Uyên. Rồi về Nha Trang ở nhà Lê Minh. Có Nguyễn Âu Hồng. Thế Vũ. Chu Trầm Nguyên Minh. Tô Đình Sự. Huy Hoàng, Họa sĩ Thanh Hồ..... bao nhiêu chuyện vui không nói hết. Tình bạn cứ mỗi ngày thêm ấm áp. Cũng từ Nha Trang sau năm 1968, anh cho ra mắt tập truyện đầu tay: Nỗi Bơ Vơ Của bầy Ngựa Hoang. Do Ý Thức in và phát hành.

Năm 1969 tôi đổi về Tháp Chàm. Phạm Cao Hoàng , Lê văn Trung cũng ra trường vào năm đó. Trần Hoài thư còn ở lại 405 TK. Mấy anh em gặp nhau chia tay. Tôi khuyên với Thư tìm cách rời khỏi 405. Vì mặt trận Bình Định càng ngày càng khốc liệt.

2/ THÁP CHÀM

 Một buổi sáng, lang thang đi làm việc qua Cầu Móng ( cầu xe lửa), thì có một anh chàng đi xe gắn máy, áo quần bảnh bao. dừng xe lại, hỏi tôi: có phải PVN không? Hóa ra là nhà thơ Võ Tấn Khanh ( Tôn Nữ Hoài My). Khanh biết tôi là do Phạm Cao Hoàng báo là có tôi về Tháp Chàm. Qua Võ Tấn Khanh tôi biết thêm Nguyên Minh, Ngy Hữu. Còn Lê Ký Thương thì tôi đã biết khi tôi ăn cơm tháng với Lê Ký Thương do chị Yến, chị của nhà báo Lê Minh ở Tháp Chàm nấu cho ăn. Khi đó Lê Ký Thương làm ở tiểu khu Ninh Thuận. Tôi chỉ ăn cơm ở đây  một tháng thôi. Sau đó mua thực phẩm về nhà tự nấu ăn. 

Bỗng có tin nhắn của Lê Minh từ Nha Trang vào nói với tôi là THT đang ở Nha Trang muốn vào Tháp Chàm thăm tôi. Gọi tôi ra đưa Thư về Tháp Chàm. Tôi mượn chiến xe gắn máy của người bạn ra Nha Trang đem Thư về ở với tôi. Vế Tháp Chàm tôi không cho Trần Hoài Thư về đơn vị nữa. Tính sau. Và Trần Hoài Thư ở chơi với tôi gần hai tháng. ( THT đi có giấy phép của đơn vị 405 TK)

Tháp Chàm, có Võ tấn Khanh dạy học ở trường tiểu học Đô Vinh, gần nhà tôi thuê. Cứ vài đêm Khanh tới đèo tôi với Thư trên chiếc xe gắn máy xuống Phan Rang gặp Nguyên Minh, Lê Ký Thương, Ngy Hữu uống cà phê . Nguyên Minh là người sáng lập tạp chí Ý Thức và in cho Thư tập truyện ngắn đầu tay: Nỗi Bơ Vơ Của bầy Ngựa Hoang. In theo lối quay ronéo, chữ nghiêng ( tôi còn nhớ như thế). rất đẹp. Bìa do Lê Ký Thương trình bày. Người đánh máy trên stancil là chị Phương, bạn của Nguyên Minh. Kể ra chị Phương này cũng giỏi khi ngồi mở to mắt mà đọc những truyện ngắn của THT. Như tôi đã viết: chưa ai viết chữ xấu như THT . Nhưng chị Phương đọc được.  Có dịp tôi sẽ nói vế tập truyện đầu tay này của Trần Hoài Thư tại sao là NBVCBNH. Vui cũng nhiều mà buồn cũng nhiều cho tuổi trẻ chúng tôi trong thời chiến qua tập truyện đầu tay này của THT. Tập truyện in ra phát hành hết. Hình như 100 tập???

Trong thời gian ở Tháp Chàm ( xin nhắc lại: Trần Hoài thư không phải đào ngũ như nhiều người nghĩ ). Không thích, bỏ đơn vị đi chơi kiểu vô kỷ luật. Trong lúc ở Tháp Chàm lúc nào anh cũng muốn về lại với quân đội. Trên Vấn Đề của ông Mai Thảo có một bản tin đánh đi từ Nha Trang, vào ngày 18 tháng 11 năm 1970. Mà chúng tôi có được. Xin trích:

Từ Nha Trang..
Tôi đã bỏ đơn vị. Được ba tháng. Tôi muốn có một thái độ nhất là trong lúc nầy. Bây giờ thì tôi chỉ còn chờ ngày ra Tòa.Có điều chắc chắn là tôi sẽ trở lại quân ngũ. Tôi muốn như vậy..

Trong gần hai tháng ở Tháp Chàm với tôi. Tôi có nhận lá thư của ông Trần Phong Giao gởi cho tôi nói là đưa THT đi trình diện.  Kể ra nhiều anh em và mấy ông trong tòa soạn cũng nghĩ THT đào ngũ. Ai cũng lo lắng cho Thư.

Vào cuối năm 1969. Tôi đưa Thư ra Nha Trang trình diện nơi Quân vụ thị Trấn ( đồn Quân Cảnh). Ra tòa án binh. Giáng cấp. Rồi đến Đơn Vị 2 Quản Trị, đóng ở Diên Khánh, Nha Trang. Và từ đây, Trần Hoài Thư nhận sự vụ lệnh lên Sư Đoàn 23 BB trên Ban Mê thuột. Tôi nói với Thư: tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Ngày tiễn Thư lên Ban Mê Thuột tại bến xe Nguyễn Hoàng, Nha Trang, tôi cởi chiếc jacket cho Thư mặc. Và có thêm hai người bạn tiễn Thư lên đường là nhà văn Nguyễn Âu Hồng ( ở Mỹ) và nhà thơ Nguyễn Sa Mạc ( còn ở VN ). Và cũng từ ngày hôm đó, tôi xa Trần Hoài Thư .

Đưa THT lên Ban Mê Thuột. Về lại Tháp Chàm. Tôi có một cái radio nhỏ để nghe tin tức ban đêm. Một điều thú vị là khi tôi tò mò bắt qua tần số của đài MTGPMN. Vô tình tôi nghe được một bản tin nói về nhà văn Trần Hoài Thư. Đang nằm trên giường, tôi ngồi bật dậy để nghe. Đại loại: Bản tin nói nhà văn Trần Hoài Thư đã bỏ súng không còn bắn giết cách mạng và nhân dân nữa. Nhưng sau đó vì bản chất ngụy của ông ta đã trở lại cầm súng. Tóm lại bản tin không dài. Lúc đầu ca ngơi THT nhưng sau đó trách cứ vì bản chất. Tôi nghe mà không biết ai viết  bản tin này gởi vô bưng. Có nhiều nghi vấn trong số những bạn cầm bút quen biết giữa tôi với Trần Hoài Thư.

Tôi giữ cái tin này không nói với ai, cho đến khi gặp THT bên Mỹ tôi nói cho Thư nghe. Thư cũng ngạc nhiên. Và cũng có những nghi vần giống tôi. Dù gì khi tôi nghe bản tin này, tôi nghĩ THT không phải là nhà văn nổi tiếng bên này mà còn bên kia biết đến nữa.

Nhắc đến Thư ở Tháp Chàm. Tôi mới nhìn thấy được " cuộc sống nội tâm" của THT. Tại căn nhà tôi thuê, trên một ngọn đồi nhỏ. Dưới chân đồi là đường rầy xe lửa ( nhà gần ga Tháp Chàm). Trước sân nhà có một tảng đá trắng không cao lắm mà tôi dùng làm nơi để ngồi vào những buổi chiều mát trời. Tôi thấy Thư chiều nào cũng ra ngồi trên tảng đá ấy nhìn về hướng Krong Pha. Anh buồn, mỗi khi nghe còi tàu xe lửa chạy qua. Anh nghĩ về Đơn Dương những ngày thơ ấu sống gần ga xe lửa. Tháp Chàm cũng là nơi có THT về với tôi. Tôi vui. Cho  nên những ngày nghỉ, tôi với Thư thường vác súng M16 xuống sông Dinh bắn cá đem về nấu ăn. Bờ sông Dinh cây cao bóng cả. Nhiều đá lớn giữa dòng sông. Hai người lính ốm o gầy còm ở trần, ngồi trên những tảng đá dưới những bóng cây chẳng khác nào người rừng. Tôi nhớ, có lần, THT cho tôi xem một lá thư của một người con gái tên Yến ở Cần Thơ viết cho anh. Có nhắc đến một bài hát: Buồn Tàn Thu ..." em ngồi đan áo. Lòng buồn vương vấn. Em thương nhớ chàng....

Thư lên Ban Mê Thuột. Tôi sống vài tháng thì đổi ra Dục Mỹ. năm 1970. Những năm sau, tôi có gặp Võ Tấn Khanh được biết tin Thư về vùng 4 và đã lập gia đình. Tôi cũng thế. Hai người lính bụi đã có hai người con gái thương cuộc sống bụi của chúng tôi. Từ đó không còn bụi nữa.

3/ ĐẾN MỸ

Tháng 9 năm 1991, gia đình tôi đến Mỹ theo diện H.O. Thành phố đầu tiên tôi đến là Houston. Xa lạ. Không bạn bè. Không quen biết ai, ngoại trừ người bảo trợ.  Tôi sống khép kín. Cố mong làm sao tạo được một cuộc sống mới trên xứ người. Không bon chen và không đụng đến cây viết. Và cố ý  tìm xem có  tên THT trên những tờ báo chợ không. Vô tình, tôi bắt gặp tên THT trên trang đầu của tờ báo Xây Dựng trong ban biên tập. Mừng quá, về căn phòng thuê trên đường Beechnut tôi gọi điện cho tòa soạn hỏi số điện thoại của THT. Tòa soạn cho biết không có số điện thoại chỉ có e mail và không có địa chỉ. Tôi biết quái gì về e mail. Tôi nói với vợ tôi. Đành chịu,

Ở Houston 9 tháng không có việc làm gì chính đáng . Qua năm 1992 gia đình tôi quyết định về thành phố Amarillo, cũng trong bang Texas về phía Bắc mà lập nghiệp cho mãi đến cuối năm 2012.

Khi ở Amarillo, vào năm 1994. Vợ tôi có quen với một chị cũng người Huế biết gia đình anh Phiệt ở Houston, và cho vợ tôi số điện thoại. Vợ tôi  gọi và hỏi thăm đồng thời cho số điện thoại nhà để vợ chồng anh Phiệt chuyển cho THT. Vợ tôi làm ca chiều trong hãng bò mà tôi thường hay nói chơi là: trung tâm tàn phá sắt đẹp. Nhưng vì cuộc sống phải làm. Còn tôi làm ở hãng mộc. Khoảng 6 giờ chiều đi làm về, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là tiếng nói của người bạn tôi, như ngày nào: Trần Hoài Thư. Tôi mừng muốn khóc. Hỏi thăm về gia cảnh THT cho biết một vợ một con. Tôi hỏi Thư vợ tên Yến phải không? Thư nói phải. Một mối tình đẹp còn hơn tiểu thuyết.

 Từ ngày đó, tôi với Thư thường gọi nhau hằng ngày. Tối về , tôi nói với vợ tôi là anh Thư có gọi. Bà vui lắm. Vì ở Mỹ tôi không có ai là bạn ngoài trừ Trần Hoài Thư. Và, hai gia đình ở Huế cũng gần  và biết nhau.

Những lần gọi thăm nhau, lúc nào THT cũng động viên tôi viết trở lại. Khi đến Mỹ, tôi có đem theo một ít bản thảo viết truyện trên giấy học trò khi mới ra khỏi trại cải tạo. Viết để mà chơi, Không dám đưa ai đọc. Vì sợ.

THT động viên tôi viết. Tôi hỏi Thư viết bằng cách nào? THT nói là tôi phải mua một computer để viết. Tôi biết xử dụng computer đâu mà mua. Tuy nhiên tôi cũng ra xem giá cả. Đồng lương cu li của tôi không thể nào mua nổi cái máy đánh chữ thì làm sao mua một cái computer? Cũng may, có một anh bạn  mới quen muốn bán cái computer cũ cổ lỗ sỉ không dùng nữa, bán với giá 300 đô. Tôi mua.  Đem về không biết cách dùng. Nhưng tối nào cũng "vọc". Không có chữ đánh tiếng Việt. Không biết dùng email là cái gì. Đánh bản văn ra sao. chịu.

Qua THT. Người bạn cũng là người thầy của tôi chỉ cho tôi biết cách xử dụng máy vi tính, từ năm 1994 cho tới nay. Những truyện ngắn của tôi viết khi ra khỏi trại đã được phục hồi lại trên máy vi tính cổ lỗ sỉ này. Ngoài ra THT còn bày cho tôi copy vào dĩa để phòng hờ máy bị hư. Qua THT, kể từ năm 1969 cho đến khi tôi bắt liên lạc được với THT vào năm 1994. THT không thay đổi. Với bạn bè, anh chơi hết mình và vui tính.

4/ NGÀY ĐU GP TRẦN HOÀI THƯ và CHI YẾN

Hình như vào năm 1996 (?) THT có tổ chức ra mắt sách ở Quận Cam, Cali. THT mời tôi tham dự. Tập truyện: Ra Biển Gọi Thầm.  tôi từ Amarillo bay xuống Dallas. Còn THT và chị Yến bay từ New Jersey tới Dallas. Chúng tôi gặp nhau trên cùng chuyến bay qua Cali. Vui vô cùng, vì lần đầu tôi gặp THT sau năm 1969.  Chị Yến. Tôi nói với chị, dù chưa biết chị trước 1975 nhưng khi THT về sống với tôi ở Tháp Chàm, tôi đã đọc thư của chị gởi cho Thư và chị có nhắc  đến một bản  nhạc mà chị ưa thích.  Buồn Tàn Thu. Cho nên khi tôi với THT liên lạc lại với nhau, tôi hỏi Thư có phải vợ là chị Yến không? THT cười rất vui. Một mối tình rất đẹp. Còn hơn tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Bà Tùng Long nữa. Sau này, thỉnh thoảng có về Houston gặp THT và chị Yến. Trong buổi họp tại nhà Phạm Quang Tân, người chủ trương tạp chí: Văn Hóa Việt Nam. Tôi đề nghị chị hát Buồn Tàn Thu. Giọng chị nhỏ, nhưng hát rất hay. Tôi nhớ mãi.

5/ TẠP CHÍ THƯ  QUÁN BẢN THẢO và THƯ ẤN QUÁN

Vào khoảng tháng 6 năm 2011. Một cuộc hẹn gặp nhau tại Houston giữa tôi với THT và anh Trần Bang Thạch tại nhà con gái tôi. Trong buổi hẹn gặp nhau đó, anh Trần bang Thạch có giới thiệu tôi với Trần Hoài Thư hai vị khách là bạn của TBT. Chị Nguyên Nhung ( Houston) và anh Cao Vị Khanh ( Canada). Hai vị này cũng viết văn và làm thơ. Trong lúc ngồi nói chuyện thì các anh đề nghị với THT và tôi làm một tạp chí Văn Học ( không nhớ ai đề nghị).  Với tôi làm một tạp chí văn học không phải là dễ. Nhưng, tôi nghĩ ai rồi cũng có một ước mơ. Cứ cho ước mơ đó sẽ hiện thực.  Sau khi đồng ý và quyết tâm ( chưa nghe ai nói đến hình thành tạp chí như thế nào: tài chánh bài vở ra sao. Chỉ nói làm sao hình thành một tạo chí). Mấy anh chị đề nghị tôi lo bài vở. Còn THT thì lo kỹ thuật nếu tạp chí hình thành.

Bẳng đi một thời gian không ai nói đến sự hình thành một tạp chí hoàn toàn văn học trong buổi họp tại Houston.  Người nói đến tạp chí sẽ hình thành cho được là Trần Hoài Thư. Chỉ có THT bàn bạc với tôi hằng đêm qua điện thoại. Thỉnh thoảng có Trần bang Thạch góp ý. Bài vở ra sao? Tên tạp chí là gì? THT hỏi tôi. Tôi nói với THT là bài vở không thiếu, chỉ lo tài chánh để in và phát hành. THT hỏi tôi tạp chí chọn tên gì. Tôi có cái mau mắn mà ai cũng ghét. Trả lời ngay từ cái tên của Trần Hoài Thư: THƯ QUÁN BẢN THẢO. Tôi giải thích cho THT nghe hai chữa BẢN THẢO. THT đồng ý cũng như bổ sung thêm nghĩa của BẢN THẢO. Và sau khi tôi với THT đồng ý cái tên cho tạp chí, những ngày làm việc của THT trong hãng IBM . Anh đã tạo nên một phần mềm (SOFTWARE) cho riêng TQBT ruột cũng như bìa, và chỉ cho tôi cách sử dụng. Không ngờ phần mền ( software) do THT làm  riêng cho TQBT lại in được từ Nguyên Minh trong nước. Cho nên giữa TQBT và Nguyên Minh là hai nơi thường liên lạc với nhau.. .
Tôi thông báo cho các anh trong nhóm. Lúc đó trong nhóm chủ trương TQBT gồm có 5 người: Trần Hoài Thư. Phạm văn Nhàn. Trần bang Thạch. Cao Vị Khanh. Nguyên Nhung. Và TQBT phát hành số đầu tiên ( số 1) vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. THT lấy ngày này cũng là ngày đáng nhớ khi hai tòa nhà ( Twin Towers) bị những tên khủng bố ném hai chiếc máy bay vào.  Số 1 đúng 100 trang. Phát hành vào khoảng 500 số cho mỗi kỳ. Tiền giấy, mực và phát hành một tay anh THT và chị Yến lo hết. Sau đó là số 2. và đến số 3 trang bắt đầu tăng từ 100 trang lên đến trên 200 trang. Lúc này, tôi với anh THT đã liên lại được với bạn bè trong nước và qua email các bạn  gởi bài ra cho TQBT.

Nói về cách in ấn TQBT là do một tay anh THT và chị Ngọc Yến, vợ anh. Một người vợ lúc nào cũng khuyến khích anh làm văn học. Theo tôi được biết ngày đi làm, tối về anh xuồng cái basement chật hẹp của ngôi nhà anh ở, xử dụng hết tất cả những dụng cụ nấu nướng  của chị đem xuống basement để thí nghiệm. Anh điện thoại cho tôi nói như vậy. Tôi không hình dung ra với những dụng cụ nhà bếp đó làm sao anh đóng thành sách???. Anh hỏi tôi về cách kẹp giấy, vì tôi làm nghề mộc. Kẹp giấy khác kẹp gỗ. Anh đi mua mấy cái claim và dao cắt giấy. Anh mày mò và đóng thành tập TQBT số 1. Môt thành công của anh mà tôi không nghĩ tới một THT có thể làm được.

Sau khi TQBT tập 1 phát hành. Bước kế tiếp cho ra tập 2. Sau hai tháng. Anh THT nói với tôi anh muốn phục hồi lại: Di Sản văn Chương Miền Nam. Tôi đồng ý. Và từ đó có Tủ sách DSVCMN ra đời. Với cái tên nhà in mang tên gì? Tôi nói với anh không chọn đâu xa cũng từ cái tên của anh mà ra tất cả: THƯ ẤN QUÁN. Từ đó anh tạo ra một LOGO riêng cho Thư Ấn Quán. Từ nhà in này, TQBT số 2 phát hành. Và cũng từ Thư Ấn Quán này. Tập truyện đầu tiên được lên bàn mỗ của Thư Ấn Quán là tập truyện Vùng Đồi của tôi. Sau đó, TQBT không phát hành theo bất định kỳ nữa mà THT hưng phấn cho TQBT phát hành hàng tháng một. Tôi rất mệt mỏi, ngày đi làm tối về phải đọc bài, dàn trang, Lái xe thì ngủ gục. Tôi đề nghị với Thư đừng làm như vậy. Cứ bất định kỳ theo chủ trương mà làm. Nhưng bài vở của những tác giả gởi đến nhiều. Từ đó TQBT 2 tháng phát hành một lần. Tay nghế của THT về cách in ấn ( cũng là thủ công) càng ngày càng tinh vi. Từ bìa mỏng cho đến bìa cứng. In từ 200 trang lên đến 700 trang với những bộ văn, thơ miền Nam đồ sộ được phát hành. Bên cạnh việc làm đầy ý nghĩa để gìn giữ một di sản văn chương miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975 thật là quý giá. chưa có một nhà in công nghiệp nào trên đất Mỹ của người Việt làm như nhà in thủ công của THT. Bên cạnh anh, còn phải có công rất lớn của người vợ là chị Nguyễn Ngọc Yến. Mãi đến hôm nay, TQBT đã trải qua 17 năm với 79 số, phát hành liên tục, và những tập sách do Thư Ấn Quán in cho bạn bè cũng phát hành liên tục. Một điều thú vị nữa là về kỹ thuật in của anh đã cho ra bìa chữ nổi. Một lối in đầy ấn tượng trong năm 2018 khi anh in tập thơ Thu Hoang Đường của Lê văn Trung ( trong nước) mà người bạn của anh là Nguyên Minh rất ngạc nhiên và khen anh.

Viết về THT ở cái tuổi thất thập cổ lai hi này, đã trên 50 năm, với anh, vợ bịnh anh đau mà vẫn mãi còn đam mê chữ nghĩa. Tôi nghĩ trên cõi đời này ít có ai như anh. 
Viết mãi về anh. Viết hoài không hết. 

Phạm Văn Nhàn
( Houston, tháng 2.2018.)



(*) Về nhà văn quân đội Phạm Văn Nhàn.

Phạm Văn Nhàn là tên thật, cũng là bút hiệu.  Sinh năm Nhâm Ngọ (1942) tại Phú Trinh, Phan Thiết. Cựu Học sinh Trung học Phan Bội Châu  PT. Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức khoá 19 (1966).  Ra trường về phục vụ ở sư đoàn 22 Bộ Binh, hành quân vùng Bồng Sơn, Bình Định.  Sau về tùng sự tại Tổng Cục Quân Huấn.  Chức vụ cuối cùng trước 1975 là Đại Uý Tiểu Đoàn Trưởng tiểu đoàn Trần Quốc Tuấn, trung tâm huấn luyện Lam Sơn, Dục Mỹ.  Sau 1975 đi tù cải tạo 8 năm.

Làm thơ rất sớm.  Thơ đăng trên nhật báo Tự Do của Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền, (và ngâm trên đài phát thanh Sài Gòn trong chương trình Thi Văn Tao Đàn của Đinh Hùng).  Vào lính thấy đời sống đầy thảm khốc, bỏ thơ xoay ra viết truyện về những mảnh đời phiêu bạc trong chiến tranh.  Truyện ngắn đăng trên tuần báo Khởi Hành của Viên Linh (trước 1975).  Sang Mỹ định cư tại Amarillo, sau dọn về Houston, Texas. 
 Cùng Trần Hoài Thư sáng lập và điều hành tạp chí Thư Quán Bản Thảo.
Tác phẩm đã xuất bản: 
Vùng Đồi, 
Màu Thời Gian, 
21 Khuôn Mặt Văn Nghệ miền Nam.

( Trích từ bạn hữu )

No comments:

Post a Comment